tối, với sự trợ giúp của cây đèn pin, họ vùi hai cục đá vào trong tấm vải dầu
và buộc lại dây thừng.
“Giờ thì chúng ta thả nó xuống,” Tom nhẹ nhàng nói.
Bernard làm việc vừa hiệu quả vừa bình tĩnh, dường như biết chính
xác phải làm gì. Hai người họ vác cái xác, gồm cả đá, một cách tương đối
dễ dàng. Thành cầu bằng gỗ cao một mét hai. Tom, đi ngược, nhìn xung
quanh, ngôi làng tối om sau lưng anh chỉ có hai ngọn đèn đường, ở xa chỗ
cây cầu chìm nghỉm trong bóng đêm.
“Tôi nghĩ chúng ta có thể mạo hiểm ném từ giữa cầu,” Tom nói.
Vậy nên họ đi tới giữa cầu và đặt cái xác xuống một lát cho tới khi lấy
lại sức. Rồi họ cúi người xuống và nhấc cái xác lên, cùng nhau hất nó qua
thành cầu.
Nước bắn lên tung tóe - phát ra một tiếng bùm trong màn đêm tĩnh
lặng, như một khẩu súng thần công có thể đánh thức cả làng dậy - và sau đó
là một tràng tiếng lộp độp. Họ đi bộ về xe.
“Đừng chạy,” Tom nói, có thể là không cần thiết. Họ còn chút năng
lượng nào sót lại không?
Họ vào xe ô-tô và lái thẳng về phía trước, Tom không biết mà cũng
chẳng quan tâm xem họ đang đi đâu.
“Xong xuôi cả rồi!” Tom nói. “Thứ chết dẫm đó đã bị phủi khỏi tay
chúng ta rồi!” Anh cảm thấy hạnh phúc, nhẹ nhõm, và tự do một cách tuyệt
vời. “Tôi nghĩ là mình chưa kể với anh chuyện này nhỉ, Bernard,” Tom nói
bằng giọng hồ hởi, giờ họng anh cũng chẳng còn cảm giác khô khốc nữa,
“Tôi đã kể với cảnh sát là tôi thả ông Murchison ở sân bay Orly hôm thứ
Năm vừa rồi. Đúng là tôi đã bỏ hành lý của ông ta lại đó. Vậy nên nếu ông
Murchison không lên máy bay thì cũng không phải lỗi của tôi, đúng không?
Ha!”. Tom cười như vẫn hay cười một mình, vẫn cảm giác nhẹ nhõm sau
những thời khắc hãi hùng. “Tiện thể, bức ‘Đồng Hồ’ đã bị đánh cắp ở sân
bay Orly mất rồi. Ông Murchison đã bỏ nó cùng chỗ với va-li. Tôi cho là