chước Giả Bảo Ngọc trong “Hồng lâu mộng”, lẩn thẩn nhặt cánh hoa rơi
đem chôn ở vườn. Tôi dần dần được thấy cái dáng tức cười của tôi hồi ấy.
Tôi không ca tụng hoa và liễu nữa, ít ra cũng không ca tụng như người ta
thường vẫn làm. Tôi thấy trong cái mầm đầy nhựa của một cây rất tầm
thường, trong những túp lá mới non, nhiều ý nghĩa: sự sống mạnh mẽ, tràn
trề của mọi vật, cái vui sướng của mầm cây từ dưới đất nhô lên đón ánh
mặt trời, cái rung động của ngàn lá trong cơn gió. Tất cả những cái ấy đối
với tôi đều tuyệt đẹp. Tôi không cần nhắc lại những câu văn sáo về hoa lá,
về những cảnh thơ-mộng có liễu rủ bên hồ; với tôi, sự đẹp có muôn hình
vạn trạng phong-phú và đầy đủ, có những giá-trị khác xưa.
*
**
Ở văn chương cũng như ở mỹ-thuật, ở cách y-phục và cách điểm-trang,
cũng có những “mode” thay đổi từng thời. Trước hết là “mode” của những
thiếu-niên thiếu-nữ đa sầu, đa mộng; vẻ xanh xao lúc bấy giờ là biểu hiện
tâm-hồn cao-thượng. Sức khỏe hồng-hào và cái cười vui sướng là triệu
chứng của sự tầm thường. Rồi đến lượt các thanh-niên yêu nước và chính-
trị: người ta ganh nhau bí-mật tư lự và đăm đăm. Rồi đến thanh-niên bình-
dân và xã-hội, bỗng nhiên tự thấy mình có cảm-tình với các người nghèo
khổ chung-quanh. Trong lúc ấy thì người thiếu-nữ ít thay đổi hơn; các nhà
văn gán cho họ những tâm-tình mà họ chưa có chút nào.
Gần đây một nhóm văn-sĩ lại nêu ra nhiều nhân-vật mới: trong các tác-
phẩm của họ, bất cứ loại nào, con gái thì phải ngồi cửa sổ đan áo len (mùa
nực cũng như mùa rét), để mong đợi người tình; người tình này là một
thanh niên xông pha gió bụi, về chiều hay thơ-thẩn trên các bến đò. Sao lại
các bến đò? Bí mật! Với cái đầu đề “thương nhớ và phiêu lưu” ấy, họ viết
thành truyện, thành thơ, thành thiên tình-sử, không mệt mỏi và không
ngừng. Ta có thể chắc rằng một ngày kia, theo chiều gió, khi thấy độc-giả
bắt đầu chán những thứ ấy, họ lại quay ra ngâm vịnh những đầu đề khác