Tham Thien Yeu Chi
9
tay là mặt trăng, nên đặc biệt cảnh giác chúng ta
“phàm có nói năng không phải là thiền”.
3. KẾT LUẬN:
Chính tôi mới nói ở trên cũng là gỡ rối chỉ đường
mà thôi. Phàm có nói năng đều không phải thật
nghĩa. Cổ đức tiếp độ người, nếu không đánh thì
nạt, đâu có vẽ bày lăng xăng vầy. Chẳng qua người
nay không thể sánh với người xưa, miễn cưỡng
dùng tay chỉ mặt trăng. Chư vị đồng tham thiền!
Cứu cánh ngón tay là gì? Mặt trăng là gì? Hãy tham
đi!
"
III. LỜI NHẮC KHI THAM THIỀN.
Tâm tức là Phật, Phật tức là giác. Một cái giác tánh
này chúng sanh và Phật bình đẳng không sai biệt;
rỗng lặng trọn không có một vật, không thọ một
pháp, không thể tu chứng; sáng suốt mà đầy đủ
muôn đức, diệu dụng hằng sa không nhờ tu chứng.
Chỉ vì chúng sanh mê muội trầm luân sanh tử trải
qua rất nhiều số kiếp, tham, sân, si, ái, vọng tưởng
chấp trước nhiễm ô đã sâu dày, bất đắc dĩ mới nói
tu nói chứng. Thế nên, nói “tu” cổ nhân cho là một
việc chẳng lành, không cách nào hơn mới tạm
dùng vậy thôi.
Thứ nói nhập thất. Quý vị nhập thất trải qua hai
mươi mốt ngày. Trong hai mươi mốt ngày xét ra
thân tâm có phần thuần thục, dụng công sánh với
trước được dễ dàng. Quý vị cố gắng đừng để nhân
duyên qua mất. Cần yếu trong hai mươi mốt ngày
làm sao cho được nước rút đá lộ, phát minh tâm
địa mới khỏi cô phụ cái cơ duyên khó gặp này.
Hơn hai mươi ngày nay, quý vị từ sáng đến tối thức
sớm ngủ trễ, nỗ lực dụng công, kết quả không
ngoài bốn thứ cảnh giới:
1.- Có người đường lối không thông, câu thoại đầu
khán không đến, mơ mơ màng màng theo chúng
ngủ gật, không bị vọng tưởng lăng xăng thì bị hôn
trầm lôi kéo.
2.- Có người khán đến câu thoại đầu, có chút ít
hiểu bèn chấp chặt, chỉ là nắm chết cứng hòn gạch
gõ cửa, niệm chấp câu thoại đầu “Niệm Phật là gì?”,
thành ra niệm thoại đầu, cho như thế là khởi nghi
tình được khai ngộ. Đâu biết đó là dụng tâm tại
thoại vĩ. Nó là pháp sanh diệt không thể đến được
chỗ một niệm không sanh, tạm dùng còn khả dĩ,
nếu chấp cho là cứu cánh thật pháp thì mong gì có
ngày ngộ đạo? Gần đây trong thiền tông sở dĩ
không có người đạt đạo, phần nhiều do lầm dụng
tâm tại thoại vĩ.
3.- Có người hiểu khán thoại đầu, hay chiếu cố đến
hiện tiền một niệm không sanh. Hoặc hiểu niệm
Phật là tâm, tức từ chỗ một niệm phát khởi này
thẳng khán đến tâm tướng vô niệm. Theo dõi lần
đến chỗ tịch tịnh, những vọng tưởng thô đã dứt,
được khinh an, liền có các cảnh giới phát hiện.
Hoặc không biết thân tâm mình đang ngồi chỗ nào.
Hoặc biết thân được nhẹ nhàng có thể bay bổng
lên trên. Hoặc thấy người, vật đẹp đáng yêu nên
sanh tâm hoan hỷ. Hoặc thấy cảnh giới đáng sợ,
khởi tâm kinh khủng. Hoặc khởi tâm dâm dục v.v…
nhiều thứ không phải một, cần biết đó đều là ma,
chấp nó bèn thành bệnh.
4.- Có người nghiệp chướng nhẹ nhàng, đường lối
rành rõ, dụng công đúng cách, tiến đúng phương
pháp, tâm được thanh tịnh sáng suốt, tất cả vọng
tưởng đều dứt, thân tâm tự tại không có cảnh giới
nào khác. Đến chỗ này chấn khởi tinh thần theo
đường lối trước dụng công, chỉ phải chú ý “cây khô
trước hang nhiều lối tẽ”. Có khi đến chỗ này, rồi
dừng trụ trong hôn trầm. Có khi đến chỗ này được
chút ít tuệ giải, rồi làm thi làm văn, tự cho là đầy đủ,
khởi cống cao ngã mạn.
Bốn cảnh giới trên đều là bệnh, tôi sẽ chỉ quý vị
phương thuốc đối trị.
a) Như người câu thoại đầu khán không đến, nhiều
vọng tưởng hôn trầm, ông nên khán lại chữ gì trong
câu “Niệm Phật là gì?”. Khán đến khi nào vọng
tưởng hôn trầm còn ít, chữ gì không quên, liền
khán đến chỗ một niệm mới phát khởi. Ở đó đợi
đến lúc một niệm không khởi tức là được không
sanh. Hay khán đến một niệm không sanh, gọi là
chân khán thoại đầu.
b) Người chấp chặt câu “Niệm Phật là gì?”, dụng
tâm tại thoại vĩ, lấy pháp sanh diệt cho là phải, cũng
nên theo ý tứ tôi đã chỉ ở trên, tức là nhắm chỗ một
niệm phát khởi, khán đến một niệm không sanh.
c) Người quán vô niệm đã được tịch tịnh khinh an
mà gặp những cảnh giới khác lạ, ông nên chiếu cố
câu thoại đầu cũ, một niệm không sanh, Phật đến
Phật chết, ma đến ma chết, một bề không để ý đến,
tự nhiên vô sự không rơi vào chúng tà.
d) Người vọng niệm đã dứt, thanh tịnh sáng suốt
thân tâm tự tại, nên như cổ nhân nói: “Muôn pháp
về một, một về chỗ nào?”. Do một bề tiến đến chỗ
cùng cực, thẳng tiến lên ngọn núi cao chót vót
đứng, xuống tận đáy biển sâu thăm thẳm đi, lại
buông tay ngang dọc.
Trở về trước đã nói, đều là đối với người độn căn
trong thời mạt pháp mà chỉ phương pháp. Kỳ thật
tông môn thượng thượng nhất thừa này chỉ thú do
đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni ở trong hội Linh Sơn
đưa cành hoa sen lên biểu thị là “Giáo ngoại biệt