của đối phương, nên khi sắp bài phải có sách lược, cầm được quân bài tốt
chưa chắc đã thắng, mà nhận phải quân bài nhỏ chưa chắc đã thua, nhưng
chẳng hiểu tại sao, gã công tử áo gấm và hai người đi cùng hắn dường như
đã thấy hết bài của Kha Hành Đông, mỗi lần đều khéo léo phối hợp, đánh
cho Kha Hành Đông thua thảm thua hại.
Chỉ trong một lúc, Kha Hành Đông đã bị tên công tử áo gấm ăn nói tùy
tiện kia đánh cho thua mấy nghìn lượng bạc, mồ hôi trên trán đã bắt đầu vã
ra như tắm, nhưng dường như đối phương vẫn không có ý dừng tay lại.
Nhìn lên phía Vân Tương, vẫn thấy gã đứng giữa đám đông chăm chú quan
sát, không có bất kỳ biểu hiện nào. Khó khăn lắm mới cầm cự được tới giờ
cơm trưa, Kha Hành Đông chạy khỏi bàn đánh bạc như muốn tháo mạng,
vào đến hậu đường lập tức cho người gọi Vân Tương. Đối phương vừa vào
đến cửa y đã rối rít hỏi: “Vân công tử có nhìn ra manh mối gì không? Cứ
tiếp tục chơi thế này, Kha mỗ sắp khuynh gia bại sản rồi.”
Vân Tương không trả lời mà lại hỏi ngược lại: “Có phải lần nào đối
phương đánh với Kha lão bản cũng giống như hôm nay, lúc mới bắt đầu thì
ván thắng ván thua, sau mười mấy ván thì mới dần dần chiếm thế thượng
phong?”
“Không sai, dường như lần nào cũng vậy.” Kha Hành Đông vội trả lời.
Vân Tương thở dài: “Từ biểu hiện của đối phương, có thể thấy chắc
chắn đối thủ của Kha lão bản biết rõ bài trong tay ông, thậm chí ông sắp bài
như thế nào cũng bị nhìn thấu, thảo nào mà Kha lão bản luôn thua nhiều
thắng ít.”
Kha Hành Đông gật gật đầu, nhưng rồi lại lắc đầu nói: “Ta cũng nghi
ngờ như vậy, nhưng bài do đích thân ta chọn, mỗi ngày đổi một lần. Nếu
nói bọn họ đánh dấu khi bốc bài lên thì cũng không thể qua mắt kẻ lão
luyện như ta được.”
Vân Tương như trầm ngâm suy tính điều gì đó, nói: “Như ta được biết,
có một loại sơn đặc biệt làm từ bột lân thạch, nếu bôi một lượng nhỏ lên
lưng quân bài, người đứng bên cạnh căn bản không thể nhận ra có gì khác