làm nổi. Trầm ngâm giây lát, Lạc Văn Giai hiên ngang nói: “Quân tử hành
sự, chỉ mong không hổ với lòng. Tôi sẽ y theo sự thật mà báo chuyện đêm
nay với quan phủ, người ta tin hay không tin cũng không quan trọng.”
“Cổ hủ! Ngu dốt!” Lão già không nhịn được, lớn tiếng quát mắng:
“Ngươi có biết nếu chuyện tối nay mà truyền ra ngoài sẽ gây cho ngươi bao
nhiêu phiền phức không? Sẽ gây cho lão phu bao nhiêu phiền phức không?”
Lạc Văn Giai do dự một lúc rồi vẫn lắc đầu: “Dẫu sao cũng là hai mạng
người, ta không thể lừa dối lương tâm mình mang họ đi chôn như vậy
được.”
“Thư sinh vô dụng! Thư sinh vô dụng a!” Lão già than liền mấy câu, rồi
lấy trong gói ra một bình sứ nhỏ, lẩm bẩm: “Xem ra đành phải dùng đến
thần dược vô giá của lão phu thôi.”
Nói đoạn, lão đổ thuốc bột trong bình sứ vào vết thương trên hai cái xác.
Chỉ nghe tiếng “xì xì” vang lên, rồi hai cái xác dần biến mất, cuối cùng chỉ
còn lại hai bộ đồ màu đen. Lạc Văn Giai thấy vậy thì tròn mắt há hốc
miệng, chẳng biết có phải mình đang nằm mơ hay không nữa.
Cuối cùng lão già vơ hai bộ quần áo đen và hai thanh kiếm gói lại rồi
quay người đi ra cửa, chỉ ngoảnh lại cười lạnh lùng: “Bây giờ không còn
một chút dấu vết, ta xem ngươi báo quan như thế nào?”
Lạc Văn Giai nhìn lão già lảo đảo đi ra cửa, sực nhớ ra đến tên của lão
mình cũng chưa biết, vội chạy theo hỏi: “Không biết phải xưng hô với lão
bá như thế nào?”
“Sao cơ? Ngươi còn muốn khai báo với quan phủ tên lão phu nữa
chăng?” Sắc mặt lão già sầm xuống.
Lạc Văn Giai thở dài than: “Lão trượng hiểu lầm rồi. Sự việc đêm nay
đã không còn vật chứng, tôi nói ra lấy ai tin đây? Hôm nay khéo gặp lão bá
xem như là có duyên, sau này biết đâu sẽ gặp lại, nên tôi mới không nhịn
được mà hỏi đó thôi.”