lạc và hạnh phúc. Chúng ta có tư tưởng phiền não tức bồ đề, tức là hoa có
thể được vun bón bằng rác. Nếu không có rác thì không có hoa. Trong bài
Phương Pháp Đạt Thiền, thầy Tăng Hội có đặt câu hỏi là thực tập bốn thiền
có đủ để đắc quả A La Hán hay không. Câu trả lời là có thể được mà cũng
có thể không. Nếu nội dung của tứ thiền mà không giàu có thì tứ thiền chỉ
nặng về phương diện hình thức và kết quả của sự thực tập tứ thiền có thể là
rất khiêm nhượng. Nghĩa là những người tu về tứ thiền chỉ có thể sau này
được sinh lại trên những cõi trời thôi, chứ không đạt được quả vị giải thoát
A La Hán. Thầy viết rằng nếu tâm ý ta vẫn còn là tâm ý của nhất thiền thì
ta chưa đắc được quả vị A La Hán và khi lâm chung ta sẽ sinh lên cõi trời
thứ bảy, sống được một kiếp ở trên cõi trời đó mà thôi. Nếu tâm ý vẫn còn
là tâm ý của nhị thiền thì khi lâm chung ta sẽ sinh lên cõi trời thứ mười
một, thọ được hai kiếp. Nếu tâm ý chỉ là tâm ý của tam thiền thì khi lâm
chung ta sẽ sinh lên cõi trời thứ mười lăm, thọ được tám kiếp. Nếu tâm ý
chỉ là tâm ý của tứ thiền thì khi lâm chung ta sẽ sinh lên cõi trời thứ mười
chín, thọ được mười sáu kiếp. Đó không phải là giải thoát. Sanh lên cõi trời
không phải là mục đích của sự tu học. Bụt thực tập không phải là để sinh
lên cõi trời. Bụt thực tập là để giải thoát. Cho nên những dòng này của thầy
Tăng Hội chứng tỏ rằng tứ thiền không phải là cái gì tuyệt đối cần thiết
trong sự thực tập đạo Bụt. Tứ thiền chỉ là khung cảnh của sự thực tập thôi.
Bản chất của sự thực tập là An Ban Thủ Ý, là Niệm Xứ, là Bát Định, là
Thập Tưởng.