Hầm rộng lắm, thấp và tối, có nhiều cột chống cho thêm chắc, có nhiều
lối ra vào, lại có đèn sáng. Trong hầm có ghế dài, nhưng người ta mang
theo nệm, mền, ghế xếp văn hóa... dần dần việc tổ chức cũng đem lại trật
tự. Graber nhìn quanh với con mắt hiếu kỳ. Đây là lần thứ nhất y ở dưới
hầm với dân chúng, lần thứ nhất y gần gũi với đàn bà con nít ở ngay tại
nước Đức.
Ánh sáng xanh lơ làm mặt người nhợt nhạt, nom như một tốp người chết
đuối. Người đàn bà mặc áo đỏ ngồi cách y không xa, áo đỏ ngả ra màu tím
và tóc có ánh xanh xanh. Y nhìn Elisabeth. Mặt Elisabeth cũng hóa ra xám
xịt, ngơ ngác, hai mắt sâu hoắm dưới hai cái hố tối đen, mớ tóc mất cả tươi
sáng và trở nên mờ nhạt. Y thầm nghĩ: "Những người chết đuối, chết đuối
vì dối trá và sợ sệt, họ bị xua đuổi xuống dưới lòng đất, họ trở nên thù ghét
ánh sáng, thù ghét sự thật quang minh chính đại".
Một người đàn bà ngồi thu hình trước mặt Graber với hai đứa con, hai
đứa con nép vào lòng bà ta. Khuôn mặt hai đứa trẻ mất hết thần sắc, chỉ có
hai mắt còn chút sinh khí. Trong ánh sáng mờ, những cặp mắt mở lớn quay
ra phía cửa khi đợt súng cao xạ hoạt động ráo riết, trở lại đưa quanh trần
nhà thấp, bờ tường bê-tông, rồi lại quay ra phía cửa. Hai đứa trẻ cứ theo
tiếng nổ mà tìm chỗ đặt mắt nhìn. Đó là cặp mắt những con vật bị tê liệt
hay bị sa bẫy, những cặp mắt vừa đưa nhanh vừa ngơ ngác phản chiếu đóm
sáng ngọn đèn mờ. Hai đứa không nhìn thấy Graber, cả người mẹ với hai
đứa con ngồi cạnh y cũng thế, chúng không còn sức lực để nhận ra ai, nói
điều gì; trong người chúng vẫn có một sự chăm chú nghĩ đến cái nguy hiểm
vô hình mà chúng không ý thức được, cái nguy hiểm đó có thể là một tiếng
nổ dữ dội đem lại cái chết trong nháy mắt. Những đứa trẻ đã lớn rồi, chúng
không thể không biết đến sự nguy hiểm, cũng không thể giả bộ can đảm vô
ích, chúng sáng suốt nhưng chúng không có phương thế tự vệ...
Graber cũng nhận thấy thái độ đành chịu buông xuôi trong khi vẫn sáng
suốt như thế không phải chỉ là thái độ của trẻ con; phần lớn những người