Cuối cùng thì mới chỉ tám rưỡi khi anh nhấn chuông dưới cây đậu tía;
không muộn nửa tiếng như anh đã tính - nhưng một sự bồn chồn đặc biệt đã
đưa anh đến cửa nhà cô. Anh đã nghĩ những tối Chủ nhật ở nhà bà Struther
không giống như một buổi khiêu vũ, và những vị khách của bà, đã hạn chế
đến mức tối đa sự chểnh mảng của họ, thường đến sớm.
Điều duy nhất anh không tính đến, khi bước vào phòng đợi nhà Madame
Olenska, là việc anh trông thấy mũ và áo khoác ngoài ở đó. Sao cô bắt anh
đến sớm nếu cô định mời người đến ăn tối? Khi kiểm tra kỹ lưỡng hơn về
đống đồ mà Nastasia đang đặt đồ của anh bên cạnh, sự bực bội của anh
nhường chỗ cho sự tò mò. Những chiếc áo khoác rõ ràng là những thứ lạ
nhất anh từng thấy dưới những mái nhà lịch sự, và chỉ liếc qua anh cũng có
thể quả quyết rằng không cái nào trong số chúng thuộc về Julius Beaufort.
Một là cái áo choàng ulster may sẵn bờm xờm màu vàng, và cái kia là một
cái áo khoác rất cũ và lỗi thời - thứ mà giống như người Pháp gọi là một
“Macfarlane”. Những chiếc áo này, có vẻ được làm cho một người ngoại
cỡ, rõ ràng trông dài và nặng, những nếp gấp đen xanh của nó bốc ra một
mùi mùn cưa ẩm ướt gợi nhớ tới những buổi họp kéo dài ngồi dựa vào
những bức tường ở các phòng bar. Trên nó đặt một cái khăn xám tơi tả và
một cái mũ nỉ kỳ cục với hình dáng nửa giống kiểu của tăng lữ.
Archer nhướng mày nghi vấn về phía Nastasia, người cũng nhướng mắt
lại với tiếng “Già!” khi cô mở cửa phòng khách.
Chàng trai trẻ ngay lập tức thấy rằng nữ chủ nhân không ở trong phòng,
và với sự ngạc nhiên, anh nhận ra một phụ nữ khác đang đứng bên lò sưởi.
Người phụ nữ này cao, thon thả và lòng thòng, khoác trên người một bộ
quần áo đính tua và thắt dây rối rắm, với sọc vuông, sọc vằn và những dải
màu mộc mạc sắp xếp theo một kiểu mà đầu mối dường như biến mất. Tóc
bà, vốn đã cố chuyển sang màu trắng nhưng chỉ thành công trong việc làm
bạc màu, được gài lên bởi một chiếc bờm Tây Ban Nha và một chiếc khăn
diềm đen, và găng tay hở ngón bằng lụa, thấy rõ các vết mạng, che phủ bàn
tay bị thấp khớp của bà.