ơn cho những món quà cuối cùng từ những người bạn và những người tình
cũ. Tiền thù lao cho Đức giám mục và mục sư đã an toàn trong túi của
người phù rể. Hành lý của anh đã ở nhà bà Manson Mingott, nơi tiệc cưới
được tổ chức, và những bộ đồ du lịch mà anh muốn thay cũng đã ở đó. Một
toa tàu riêng cũng đã được đặt chỗ để mang đôi bạn trẻ đến một nơi bí mật
- việc giấu giếm về địa điểm diễn ra đêm tân hôn là một trong những điều
bí mật thiêng liêng của nghi thức tiền sử.
- Có nhẫn chưa? - chàng Van der Luyden Newland trẻ tuổi, người thiếu
kinh nghiệm trong bổn phận của một phù rể và sợ hãi bởi sức nặng của
trách nhiệm này, thì thầm nói.
Archer làm một cử chỉ mà anh đã thấy quá nhiều chú rể làm: anh đưa
bàn tay phải không đeo găng sờ vào túi chiếc áo khoác màu xám đen, và
đảm bảo rằng chiếc nhẫn vàng nhỏ (được khắc bên trong hàng chữ:
Newland trao May. Tháng Tư…, năm 187…) vẫn ở chỗ của nó; rồi khôi
phục lại tư thế cũ, tay trái nắm chặt cái mũ chóp cao và đôi găng tay màu
xám ngọc trai với những mũi thêu đen, anh đứng nhìn về phía cửa nhà thờ.
Ở trên cao, hành khúc của Handel
nổi lên kiêu hãnh qua mái vòm giả
đá, mang theo trong từng đợt sóng nhạc hình ảnh mờ ảo của nhiều đám
cưới, mà với sự bàng quan thú vị, anh từng đứng trên bậc thánh đường này
để xem những cô dâu khác lướt đi trên chính điện về phía những chú rể của
họ.
“Sao mà giống đêm đầu tiên ở rạp hát thế!” - anh nghĩ, nhận ra tất cả
những khuôn mặt quen thuộc trong những lô quen thuộc (không phải,
những hàng ghế), và tự hỏi liệu bà Selfridge Merry với những chiếc lông đà
điểu cao ngất trên mũ nồi và bà Beaufort với đôi hoa tai kim cương và nụ
cười quen thuộc có ở đó khi tiếng kèn vang lên không - và liệu những chỗ
ngồi phía trước thích hợp có được chuẩn bị sẵn sàng cho họ trong một thế
giới khác.
Sau đó vẫn còn có thời gian để xem xét, từng người một, những vẻ mặt
quen thuộc ở hàng đầu. Những người phụ nữ với sự tò mò và hứng thú rõ