chúng lại và đẩy khung kính trượt, nhoài ra ngoài màn đêm lạnh lẽo. Việc
không nhìn vào May đang ngồi bên bàn dưới ngọn đèn của anh, việc nhìn
những ngôi nhà khác, những mái nhà, ống khói, để có cảm nhận về những
cuộc sống khác, những thành phố khác ngoài New York, và toàn thế giới
bên ngoài thế giới của anh, làm sạch đầu óc anh và khiến nó dễ thở hơn.
Sau khi anh đã nhoài ra ngoài bóng đêm được vài phút, anh nghe thấy cô
nói:
- Newland! Hãy đóng cửa sổ lại. Anh sẽ chết đấy.
Anh sập cửa kính xuống và quay lại.
- Chết? - anh lặp lại; và anh muốn nói thêm - “Nhưng anh đã chết rồi.
Anh đã chết… anh đã chết hàng tháng nay rồi”.
Và đột nhiên lời nói ấy ánh lên một ý nghĩ điên cuồng. Nếu chính cô chết
thì sao! Nếu cô ấy sắp chết - chết sớm - và để anh tự do! Cái cảm giác đứng
đó, trong căn phòng ấm áp quen thuộc ấy, nhìn vào cô, và mong cô chết,
thật quá kỳ lạ, quá lôi cuốn và mạnh mẽ, đến nỗi sự dã man của nó không
làm anh giật mình ngay. Anh chỉ đơn giản cảm thấy cơ hội đó đã cho anh
một khả năng mới mà tâm hồn ốm yếu của anh có thể bám vào. Đúng, May
có thể chết - con người là như thế: con người trẻ, khoẻ mạnh như cô: cô có
thể chết và để anh đột nhiên được tự do.
Cô ngước lên, và vì đôi mắt mở to của cô mà anh biết ở anh chắc mang
một vẻ gì đó kỳ lạ.
- Newland! Anh ốm à?
Anh lắc đầu và tiến về chiếc ghế bành của mình. Cô cúi xuống khung
thêu, và khi anh đi qua anh đặt tay lên tóc cô.
- May tội nghiệp! - Anh nói.
- Tội nghiệp? Sao lại tội nghiệp? - Cô lặp lại với một tiếng cười gượng
ép.
- Vì anh sẽ không bao giờ có thể mở cửa sổ mà không làm em lo lắng -
anh đáp, cũng cười.