vết thương của dân không thảm như năm trước, Khánh Dư có phần công
lao trong đó” (ĐVSKTT tập 2 - NXB VHTT 2003, tr 89).
Câu chuyện về Vân Đồn và dòng sông Mang trở thành đề tài sôi nổi trên
dọc chuyến tàu. Đại tá Vũ Bệ chỉ cho chúng tôi hai ngôi miếu cổ dọc sông
Mang, và nói rằng đó là những nơi Trần triều hiển thánh, tức là nơi thờ
những dũng sĩ đời Trần đã hy sinh trong ba lần chống quân Nguyên Mông.
Hình như có quá nhiều những linh hồn chết mà chưa được siêu thoát, đã
tích tụ lại, trở thành khí thiêng. Có không ít câu chuyện kỳ lạ về những ngôi
miếu này, ví dụ, ai đến phá, đến làm uế tạp, mấy tháng sau ắt sẽ bị chết bất
đắc kỳ tử.
*
Đảo Quan Lạn hiện ra, vừa rất quen thuộc, vừa thật lạ lùng. Quen thuộc
bởi giữa biển khơi vẫn những nếp nhà, ruộng dưa, hàng cây, giếng nước
như ở châu thổ Sông Hồng. Lạ lùng vì không ngờ nơi xa xôi đầu sóng ngọn
gió này mà cũng phố xá, đường bê tông, nhà ba bốn tầng, tấp nập đôi hộ
chẳng kém gì những thị tứ trong Cẩm Phả. Hòn Gai. Bất ngờ nhất là chiếc
xe khách chở học sinh dọc con đường xuyên đảo và những hàng cột điện
ngang dọc khắp các dãy phố cho tới những ngõ xóm. Không có điện lưới
quốc gia thì đã có các chủ tư nhân cung cấp điện. Muốn thắp sáng suốt đêm
thì trả thêm tiền. Cuộc sống hiện đại ùa tràn từ bãi biển vào các gia đình
nhưng vẫn không lấn át được dáng dấp cốt cách của một làng Việt cổ.
Các nhà sử học liệu có nghĩ rằng Quan Lạn, Minh Châu là những điểm
dân cư cổ xưa nhất của người Việt ở vùng bbiển Đông Bắc này? Có thể
mường tượng khi vua Lý Thái Tổ cưỡi thuyền rồng từ kinh đô Hoa Lư về
thành Đại La để cắm đất định đô Thăng Long, thì cũng là khi những chiến
thuyền nhà Lý cũng dong buồm ngược biển để đến đồn trú ở trấn Vân Đồn.
Cụm đảo Đông Bắc thành nơi khai sinh binh chủng biên phòng và hải quân
Đại Việt, thành thương cảng lớn với những làng cửa người Việt được quần
tụ xung quanh. Kia rồi quần thể đình chùa, nghè miếu Quan Lạn sừng sững
đứng bên bờ biển. Ngôi đình với đầu đao vút cong, mái ngói nâu trầm mặc,