đoàn. Ta đánh châm ngòi, diệt cứ điểm Đầu Mầu ngày 25-6-1966. Khi ấy,
tiểu đoàn pháo của tôi đặt hoả lực ở điểm cao 402... Tiếp đến là cuộc đánh
chặn chiến dịch Pơreri I, Pơreri II của địch vào tháng 2 năm 1967. Tiểu đội
Bùi Ngọc Đủ lừng danh trong trận đánh ở đồi Không Tên. Trung đội pháo
của tôi cùng đại đội phối thuộc với trung đoàn pháo phản lực DKB vừa từ
ngoài Bắc vào đánh hủy diệt điểm cao 241 và khống chế hoả lực từ Cam
Lộ. Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in. Đêm ấy, sau khi hai khẩu
pháo của chúng tôi bắn ba loạt, trận địa pháo ở Cam Lộ câm bặt. Trung đội
chuyển hướng vào điểm cao 241 kia, bắn hết cơ số đạn. Điểm cao 241 cháy
đỏ rực một vùng trời...
Câu chuyện của nhà văn Tô Đức Chiêu khiến tôi liên tiếp bất ngờ. Đời
lính của anh hầu như thuộc về vùng đất Quảng Trị này. Hôm qua, ở nhà
khách tỉnh Quảng Trị, khi nghe bài hát do nhạc sĩ Huy Thục phổ nhạc từ
năm 1966 dựa theo lời bài thơ “Kèn xuất trận” của Tô Đức Chiêu: “Ôi
miền Nam yêu thương, Giặc ngày đêm bắn phá, Thù gọi thù phải trả, Giục
lòng ta đi lên...”, cả nhà thơ Trúc Thông và nhà văn Dương Duy Ngữ cùng
bật thốt lên: “ Tô Đức Chiêu là bất ngờ nhất của đời tôi.” Thì ra bài hát
hừng hực của một thời ấy, lại bắt dầu từ bài thơ đăng báo Quân đội nhân
dân trước ngày Tô Đức Chiêu vượt sông Bến Hải ở thượng nguồn, cõng
pháo 120 ly vào Cam Lộ. Giữa năm 1967, trung đội pháo của anh lại vòng
ra Vĩnh Linh, xuống hạ lưu sông Hiền Lương, đưa pháo qua Tùng Luật,
vượt Cửa Tùng sang Cát Sơn Phường tới Thủy Bản để đánh căn cứ Gio
Linh... Năm 1970, ngoài quê Hải Dương, cậu em trai duy nhất của anh, Tô
Đức Lợi, dường như bị thôi thúc bởi bài hát “Kèn xuất trận”, đã xung
phong vào chiến trường. Năm 1971, Lợi hy sinh tại mặt trận Quảng Trị.
Bây giờ, sau ba mươi năm, ba lần Chiêu vào Quảng Trị tìm xương cốt
em, mà không thấy.
Hôm kia, tại nghĩa trang Đường Chín, trước những ngôi mộ liệt sĩ vô
danh, con người lừng lững một mét tám mươi với mái tóc đang ngả trắng
kia, đã khóc.
*