chính là địa danh lừng lẫy được xướng lên giữa kinh kỳ, được khắc vào văn
bia Quốc Tử Giám ngót hai trăm năm mươi năm trước.
Cứ tưởng sau phát kiến có tính “khảo cổ” của tôi, cả họ Đặng, cả làng
Nguyễn Xá sẽ kéo nhau ra Hà Nội để dập chữ, đúc khuôn, lục tìm các kho
sử liệu để làm sống lại một ông Nghè từng làm rạng danh dòng tộc, làng
nước. Vậy mà không. Như đã ném xuống ao bèo... Tôi ngậm ngùi nghĩ đến
câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Họ Đặng Nguyễn Xá vẫn còn đó với
những người bạn học một thuở với tôi: “Đặng Dụng Tê, Đặng Dụng
Thường, những người thợ cày hôm nay và mãi mãi, còn ông Nghè làng thì
hầu như đã bị quên lãng, thậm chí không còn thấy nhắc tên trong gia phả.
Rất may… là ông tiến sĩ Đặng Dụng Chu còn được gắn với hai chữ Động
Phí quê tôi. Nếu không có hai chữ Động Phí, chắc chắn tôi sẽ không tìm
thấy ông giữa Hà Nội đông đúc và đa tạp của thời mở cửa hôm nay. Cũng
chính từ cái tên Động Phí mà tôi nhận ra những người làng. Kỳ lạ quá, lâu
nay cứ tưởng chỉ có mình tôi thành người Hà Nội. Hoá ra, giờ đã một góc
làng. Kỳ lạ nhất là mới đây, tôi lại phát hiện ra một sự kiện độc đáo : Làng
tôi có nghề phở gia truyền.
II. Phở gia truyền - một phát hiện bất ngờ
Một sáng tháng Chín đầu năm ngoái, nhân có cuộc họp trên phía Cầu
Giấy, tôi rẽ qua của Chùa Hà tìm một quán phở. Kia rồi, “Phở gia truyền”,
tấm biển kẻ dùng chữ đại bằng vôi đập vào mắt tôi. Phải nói ngay rằng lâu
nay tôi rất dị ứng với hai chữ gia truyền mà người ta quá lạm dụng để câu
khách: “Thuốc ghẻ gia truyền”, “Cắt tóc gia truyền”, “Thuốc hôi nách gia
truyền”, “Phở gia truyền”… Cứ cái đà này chắc rồi sẽ đến “Cơm, cháo gia
truyền” Lố bịch hết sức.
Nhưng cái quán “Phở gia truyền” kia tấp nập chẳng khác gì những bia
“Hải xồm”, “Bò tùng xẻo” giữa trưa hè đổ lửa. Chắc là ngon nên mới đông
khách thế. Tôi quyết định “hạ mã”, đá cái chân vào một cái ghế, cất giọng
sang sảng, bắt chước kiểu sành điệu của nhà văn chuyên gia về phở Nguyễn
Tuân:
- Một tái gầu!