tôi bảy tám miệng ăn, đói vàng mắt. May mà thỉnh thoảng có tem phiếu,
đường sữa của Bầu gửi về. Rồi cậu tôi ốm cả năm giời. Sau đám tang bố,
Bầu lại gồng lưng cõng cả gia đình. Bầu xin việc cho các em, đứa vào Sông
Bé, đứa ra Hà Nội. Mão lấy chồng quê, nhưng cũng nhờ nhà chị gái ở Hà
Nội làm nơi đi về và tập kết trứng vịt lộn để phân phát cho các đại lý tiêu
thụ. Còn anh chồng cô Mão, con ông Thiêm xóm Am, tôi cũng chẳng lạ.
Ông Thiêm là thợ sẻ kì cựu, thời trẻ quanh năm cút kít trên những cánh
rừng Tây Bắc. Làng Động Phí quê tôi từ thượng cổ, có ai làm nghề phở,
sao vợ chồng Mão lại dám nhận là "phở gia truyền"?
Chồng Mão đợi tôi ăn xong, mời tôi vào trong nhà, giọng nhỏ chỉ đủ cho
tôi nghe:
- Chắc bác thấy lạ vì em treo biển "Phở gia truyền"? Vì bác là nhà báo,
cho nên chúng em phải thưa cặn kẽ. Phở nhà văn đích thực gia truyền bác
ạ. Cả làng Động Phí mình hiện giờ cũng có tới chục hiệu phở ở Hà Nội. Em
tạm kể bác nghe mấy hiệu phở có tiếng, mỗi ngày bán được dăm chục cân
bánh phở. Như hiệu anh Sử trên đường Lạc Long Quân, hiệu chị Sợi dưới
đường Lạc Trung, hiệu anh Pha ở Thành Công...
- Tất cả đều là "Phở gia truyền"? - Tôi hỏi.
- Vâng. Gia truyền cả. Làm sao chúng em dám bịa đặt để loè bịp thiên
hạ? Câu chuyện nghề phở gia truyền làng ta dài lắm. Lúc khác em sẽ thưa
bác rõ.
Tôi tròn mắt, như vừa nghe một câu chuyện đùa.
- Cô chú làm anh như trên trời rơi xuống - Tôi nói - Tôi đẻ ở làng Động
Phí, làm sao lại không biết. Nghề gia truyền chính cống của làng mình là
nghề làm ruộng và nghề cưa xẻ...
- Thêm một nghề làm thừng nữa bác ạ - Cô Mão chen vào.
- Ừ, ngoài nghề làm thừng nữa...
Tôi ngồi thừ ra. Bỗng nhớ nôn nao những kỷ niệm về làng. Chao ơi, nếu
nghề cưa xẻ chỉ dành riêng cho cánh mày râu, thì nghề làm thừng làng tôi
lại là nghề chỉ dành cho đàn bà, con gái. Giống như nghề làm nón, nghề