Tủ sách Thực Dƣỡng
T
T
h
h
ự
ự
c
c
d
d
ư
ư
ỡ
ỡ
n
n
g
g
đ
đ
ặ
ặ
c
c
t
t
r
r
ị
ị
u
u
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
–
–
U
U
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
v
v
ú
ú
h
h
t
t
t
t
p
p
:
:
/
/
/
/
t
t
h
h
u
u
c
c
d
d
u
u
o
o
n
n
g
g
.
.
v
v
n
n
Trang 122
mạch, ung thƣ và các bệnh khác (Xem phần nói về ung thƣ lá lách và thảo luận về biến thái của
đƣờng trong cơ thể và sự kết tinh của nó trong việc hình thành khối u và bệnh ung thƣ vú).
Việc tiêu thụ sữa và các thức ăn từ sữa trong xã hội hiện nay thƣờng ở lứa tuổi thiếu niên,
nhi đồng. Một trong những thay đổi sinh học chủ yếu của thời hiện đại là đã có sự bỏ bê lối nuôi
con bằng sữa mẹ. Theo nền văn hóa truyền thống, các bà mẹ thƣờng nuôi con trong vòng 1 năm
hoặc hơn. Vào đầu thế kỷ XX, có khoảng 60% trẻ em ở Mỹ đƣợc nuôi bằng sữa mẹ. Nhƣng tới
thập niên 70, số lƣợng ấy giảm xuống rõ rệt. Một cuộc thăm dò năm 1968 cho thấy chỉ có 11% số
bà mẹ Mỹ ngừng nuôi con bằng sữa mẹ sau 30 – 40 ngày. Từ đó, nuôi con bằng sữa mẹ đƣợc xem
là phƣơng pháp cải lão hoàn đồng và 60% các bà mẹ ngày nay ở Mỹ đã nuôi con bằng sữa của họ.
Theo nghiên cứu, sữa bò và sữa mẹ hoàn toàn khác nhau. Sữa bò chứa nhiều canxi hơn
sữa mẹ 4 lần hơn 3 lần đạm và 2/3 carbon hydrat. Cấu tạo và tỉ lệ phát triển khác nhau giữa bò
con và trẻ em chứng minh sự khác nhau trong những thành phần trên. Ví dụ, khi sinh ra, não và
hệ thần kinh của bò con phát triển đầy đủ, một lƣợng lớn canxi và đạm cần để tăng cƣờng sự
phát triển cơ bắp và cấu trúc của xƣơng. Bò con thƣờng nặng khoảng 37,5 kg trong 6 tuần đầu.
Ngƣợc lại, cơ thể của trẻ em lớn từ từ nên chỉ tăng khoảng 1 - 1,5kg trong 6 tuần đầu.
Tuy nhiên, não của trẻ chỉ đạt 23% mức phát triển khi mới sinh và chất dinh dƣỡng trong
sữa mẹ rất cần để hoàn chỉnh hệ thần kinh trung ƣơng của trẻ.
Thêm vào, sữa mẹ còn chứa chất kháng thể giúp ngăn ngừa sự phát triển bất ngờ của vi
trùng và virus. Sữa mẹ cung cấp tính miễn dịch chống bệnh thông thƣờng và truyền nhiễm (đặc
biệt chống lại bệnh nickettsia, salmonella, viêm tuỷ xám, bệnh cúm, bệnh strep và viêm sƣng
lƣỡi gà) giúp tăng cƣờng lƣợng bạch cầu khoẻ mạnh có khả năng tiêu diệt vi trùng gây bệnh. Sữa
mẹ còn có chất B, bifidum, là một loại vi sinh lành mạnh độc đáo tìm thấy trong một trẻ em, giúp
trẻ đủ sức đối chọi với một số lớn các loại vi sinh khác.
Một thành phần khác có trong sữa là lactose, một loại đƣờng thô tiêu hóa nhờ có chất
lactase, một loại enzym sinh sản trong ruột. Ở những nƣớc còn giữ truyền thống cũ, lactase sẽ
ngƣng tạo ra khi đứa trẻ dứt sữa vào khoảng từ 2 – 4 tuổi. Vì thế, sau độ tuổi này, nếu trẻ ăn
uống những sản phẩm sữa bò, chúng sẽ bị chứng khó tiêu, tiêu chảy, chuột rút, dị ứng, hoặc các
bệnh khác. Tình trạng này gọi là thiếu chất lactase.
Tuy nhiên, ở phƣơng Tây, những sản phẩm làm từ sữa lại là thành phần thức ăn chính
trong bữa ăn của nhiều thế hệ trƣớc kia. Xét về mặt sinh học, chất lactase sẽ tiếp tục sinh ra trong
ruột sau thời niên thiếu, vẫn tiêu hóa những thực phẩm làm từ sữa khi trẻ đã lớn và cả thời gian
sau này. Trong số các dân da trắng thì sự thiếu lactose rất thấp. Chỉ có 2% ngƣời Đan Mạch, 7%
ngƣời Thụy Sĩ và 8% ngƣời Mỹ da trắng là không thể tiêu hóa sữa và các sản phẩm sữa khác.
Ngƣợc lại khoảng 70% ngƣời Mỹ da đen, cũng nhƣ 90% ngƣời Bantus, 85% ngƣời Eskimo, 78%
ngƣời Ả Rập và 58% ngƣời Do Thái Israel đều thiếu lactose.
Dù cho khả năng con ngƣời có thể thích ứng việc tiêu thụ sữa trong một thời gian dài,
nhƣng sự hấp thụ quá tải các chất béo và cholesterol trong sữa, pho mát, bơ, kem và những thực
phẩm tƣơng tự sẽ gây nên sự chịu đựng nặng nề bởi việc hấp thu các thức ăn ấy ngày càng tăng