Tủ sách Thực Dƣỡng
T
T
h
h
ự
ự
c
c
d
d
ư
ư
ỡ
ỡ
n
n
g
g
đ
đ
ặ
ặ
c
c
t
t
r
r
ị
ị
u
u
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
–
–
U
U
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
p
p
h
h
ổ
ổ
i
i
h
h
t
t
t
t
p
p
:
:
/
/
/
/
t
t
h
h
u
u
c
c
d
d
u
u
o
o
n
n
g
g
.
.
v
v
n
n
Trang 126
Theo dõi nhiều ngàn ngƣời Phần Lan trong năm 1991, nhà nghiên cứu báo cáo 60%
nhóm có tỉ lệ ung thƣ phổi thấp, đều ăn theo chế độ rau quả, chất bột có chứa caroten, vitamin C,
E, P. Knekt: Dietary Antioxidtant & the Risk of Lung Cancer” trong American Journal of Epidemiology.
Khảo sát lâm sàng năm 1991 các bệnh nhân ung thƣ phổi, thận, cuống họng, bọng đái,
bàng quan, trực tràng đã đƣợc chữa khỏi thì từ 20 đến 245 cao hơn, ở những ngƣời thƣờng ăn rau
quả có chất caroten họ mau lành hơn.
C. Ruth: Nutrition & Cancer.
Cũng năm 1991, những nhà nghiên cứu ở Italia báo cáo rằng, nếu thay đổi chế độ ăn,
ngƣời bệnh có thể biến đổi tác nhân gây bệnh ung thƣ phổi do thuốc lá. Phân tích môi trƣờng
sinh thái tiến hành bởi Quỹ Tài Trợ Y Tế Mỹ chứng minh chắc chắn có một liên hệ giữa tỉ lệ tử
vong ung thƣ phổi với chế độ ăn nhiều mỡ ở bốn mƣơi ba nƣớc. Miền Nam Italia, ngƣời dân có
xu hƣớng tiêu thụ nhiều rau, mễ cốc, hoa quả, trong khí miền Bắc tiêu thị thịt, trứng, bơ, sữa, pho
mát. Ung thƣ phổi ở miền Nam chỉ bằng nửa miền Bắc, dù rằng số ngƣời nghiện thuốc lá miền
Bắc chỉ nhỉnh hơn miền Nam tí chút.
Kết luận:
“Số liệu trên đủ thuyết phục, hậu quả của hút thuốc có thể bị thay đổi bởi tiết thực, nhất
là bởi hàm lượng chất béo, chất quả”. Emanuela Taioli trong International Journal of Epidemiology số 20.
Nghiên cứu sâu thêm bƣớc nữa, theo dõi 24 năm một nhóm 1878 công nhân hãng
Western Electric ở Chicago năm 1991, ngƣời ta báo cáo: Những ai hấp thụ vào cơ thể 500
miligrams cholesterol trở lên mỗi ngày thì nguy cơ mắc bệnh ung thƣ nhiều gấp đôi ngƣời chỉ ăn
dƣới 500 miligrams mỗi ngày. Trứng phải loại vì là nguyên nhân chính.
Shekle trong tập san
American Journal of Epidemiology
. Một ngƣời đàn bà không hút thuốc vẫn có 30% nguy cơ mắc
ung thƣ phổi hơn bình thƣờng nếu có chồng nghiện thuốc lá. Đó là theo kết quả của ba năm theo
dõi hậu quả của sự thụ động hít vào khói thuốc của Jane Brody công bố trên báo New York
Times, 8/1/1992.
Chẩn đoán chữa trị
Thầy thuốc dùng nhiều phƣơng tiện để chẩn đoán ung thƣ phổi nhƣ X quang, làm
“tomogram”
ngực xƣơng, gan, chiếu cắt lớp
“gallium”
, thử độ mỡ fluroscopy, đo sức ho và khám
đờm (gồm thử và đo sức bật). Nếu khối u đã thấy rõ vị trí của nó, một đợt nữa tiến hành để tìm ra
bằng nhiều cách gồm: sinh thiết, ngực
“động đồ”
hay nội soi ngực, hút không khí làm xẹp phổi,
lấy mẫu máu trắng ở mạch cổ.
Phƣơng pháp Đông y trị liệu bệnh phổi và chẩn đoán bằng cách quan sát những vùng trên
mặt bệnh nhân. Phổi hoạt động yếu cũng nhƣ bị lao là da mặt vàng bệch, xanh xao, hay hơi sƣng.
Tuần hoàn kém, thở khò khè, ngực yếu thì vai so, dáng khòm, kèm theo thiếu máu hay béo phì.
Kéo dài một thời gian những triệu chứng phổi yếu nhƣ trên sẽ dẫn đến sƣng màng phổi, khò khè,
hen suyễn, rất có thể ung thƣ phổi hay vú. Đó cũng là hậu quả của sự tiêu thụ quá nhiều chất béo,
trứng, phó mát, bánh nƣớng, bích qui và thức ăn mặn, làm cơ thể mất nhiều nƣớc, thiếu chất tƣơi
và rau xanh, hút thuốc quá mức và thiếu vận động. Phổi hoạt động quá mức phản ánh bằng nhiều
dấu hiệu: tàn nhang trên mặt, axít béo tích luỹ cùng với chất nhờn quá mức, chẳng qua là sản