Tủ sách Thực Dƣỡng
T
T
h
h
ự
ự
c
c
d
d
ư
ư
ỡ
ỡ
n
n
g
g
đ
đ
ặ
ặ
c
c
t
t
r
r
ị
ị
u
u
n
n
g
g
t
t
h
h
ư
ư
r
r
u
u
ộ
ộ
t
t
k
k
ế
ế
t
t
–
–
đ
đ
ạ
ạ
i
i
t
t
r
r
à
à
n
n
g
g
h
h
t
t
t
t
p
p
:
:
/
/
/
/
t
t
h
h
u
u
c
c
d
d
u
u
o
o
n
n
g
g
.
.
v
v
n
n
Trang 124
đen bắt đầu ăn ít hạt mễ cốc, nhƣ bắp và nhiều thịt mỡ, tỉ lệ ung thƣ ruột của họ tăng dần, bắt kịp
ngƣời da trắng.
BS. Denis P. Burkitt: “Ăn đúng, giữ sức khoẻ và yêu đời hơn” New York 1979.
Đầu những năm 1960, Bs. Maud Tresilian Fere công tác ở New Zealand báo cáo rằng bà
đã tự chữa ung thƣ ruột bằng cách áp dụng một thực đơn toàn mễ cốc, loại bỏ hết thịt, cá, trứng,
phó mát, đƣờng, gia vị, chất kích thích và muối tinh chế… Bà biện luận: ung thƣ và những
chứng bệnh thoái hoá khác bắt nguồn từ quá nhiều acid, kiềm
“Máu người mạnh khoẻ cũng như
bạch huyết cầu chỉ hơi có tính kiềm, toàn thân cũng vậy… dù một mẩu trong cơ thể bị cắt là ung thư cũng
đều không tốt. Nếu một chất độc tác hại lên toàn thân, ta nên ăn thức ăn đúng với tỉ lệ thích hợp là sẽ làm
trong sạch máu và thế là giải phẫu hoá ra không cần thiết. Bs Maud Tresilian Fere.” Dinh dưỡng chữa
ung thư chăng?” 1971.
Nhà giải phẫu Donald Collins báo cáo: năm trong số bệnh nhân lâu năm của ông đã tự
chữa chứng ung thƣ trực tràng bằng cách ăn những món gieo trồng thiên nhiên (hữu cơ = phân
bón tự nhiên). Nhóm ngƣời bệnh này sống thêm từ hai mƣơi mốt đến ba mƣơi hai năm, và chết
về nguyên do khác chứ không phải ung thƣ. Họ giống nhau ở điểm chỉ ăn đồ tự tròng lấy, bón
phân hữu cơ, khỏi bảo quản bằng hoá chất và phun thuốc trừ sâu. Bs Collins tập san American
Journal of Proctology.
Năm 1968 một cuộc khảo sát qui mô về dịch tễ đã chỉ ra rằng, thói quen dinh dƣỡng cộng
thêm ảnh hƣởng môi trƣờng là những yếu tố quyết định thay đổi tỉ lệ ung thƣ trên thế giới, chứ
không phải yếu tố di truyền nhƣ từ trƣớc nhiều nhà khoa học vẫn tin. Số liệu cho biết suốt ba thế
hệ di dân đến Hiệp Chủng Quốc, những ngƣời Nhật bản có số ung thƣ ruột cũng y nhƣ dân Mỹ
khác. Ngƣợc lại, ở bên Nhật thì tỉ số so với Mỹ là 1/4.
Kurihara “Khảo cứu về di dân Nhật Bản” tập
san Journal of the National Cancer Institude.
Năm 1969, báo cáo của những nhà khoa học cho biết có liên hệ giữa tiêu thụ thịt và ung
thƣ ruột.
Gregor: “Gastro Intestinal Cancer & Nutrition.”
Năm 1973 những nhà nghiên cứu Anh tìm
ra sự liên hệ chắc chắn giữa ung thƣ ruột, phổi và sự tiêu thụ thịt mỡ.
Drasar frving: British Journal
of Cancer.
Có những nhà khoa học Anh năm 1973 báo cáo rằng: chất cám và sợi trong thực phẩm
thấm hút chất nhầy mà vi trùng trong ruột tiết ra, ngƣợc lại với bột mì trắng, đƣờng, điều này đƣa
đến kết luận thức ăn tinh chế gây nên ung thƣ ruột.
Pomare&Heaton, British Medical Journal.
Năm 1974 những nhà nghiên cứu cho Viện Ung Thƣ Quốc Gia liên hệ ung thƣ đƣờng
ruột với mức tiêu thụ thịt bò cao. Bằng chứng thuyết rằng thịt, nhất là thịt bò, đúng là món gây
nên khối u ác tính trong ruột già.
Beg & Howell “Địa dư của chứng ung thư ruột già” Cancer.
Cuộc nghiên cứu năm 1975 cho biết những con thú trong phòng thí nghiệm đƣợc nuôi tới
35% mỡ bò thì tỉ số có khối u đƣờng ruột tăng lên đáng kể.
Nigro trong tập san Journal of the
National Cancer Institude.
Đại học y khoa Harvard năm 1975 báo cáo: Những ngƣời ăn dƣỡng sinh vùng Boston chỉ
dùng mễ cốc, đậu, rau tƣơi, rong biển và nƣớc xì dầu… thì có chỉ số cholesterol thấp,
triglyceride và áp huyết cũng thấp hơn nhóm đối chứng Framingham ăn theo tiêu chuẩn Mỹ. Số
cholesterol trong huyết tƣơng ngƣời ăn dƣỡng sinh là 126 miligrams trong một delicit so với