THỰC DƯỠNG NGĂN NGỪA CÁC BỆNH UNG THƯ - Trang 160

Tủ sách Thực Dƣỡng

T

T

h

h

c

c

d

d

ư

ư

n

n

g

g

đ

đ

c

c

t

t

r

r

u

u

n

n

g

g

t

t

h

h

ư

ư

r

r

u

u

t

t

k

k

ế

ế

t

t

đ

đ

i

i

t

t

r

r

à

à

n

n

g

g

h

h

t

t

t

t

p

p

:

:

/

/

/

/

t

t

h

h

u

u

c

c

d

d

u

u

o

o

n

n

g

g

.

.

v

v

n

n

Trang 126

nghiên cứu trên thế giới thấy rằng ăn mễ cốc chống đƣợc bệnh ung thƣ ruột vì làm giảm lƣợng
acid tập trung vào đại tràng và vón cục ở đƣợc chất thải. Vào năm 1982 điều tra thấy rằng dân
Phần Lan ăn nhiều bánh mì đen và phân thải ra to hơn ngƣời phƣơng Tây 3 lần và nồng độ acid
đắng cũng kém.

Englyst “Bổ dưỡng và ung thư”.

Một cuộc khảo sát vào năm 1984, đậu làm giảm lƣợng acid đắng 30% cho những ai đang

có xu hƣớng tăng lên. Acid đắng cần để hoà tan chất béo nhƣng quá liều sẽ có nguy cơ gây ung
thƣ, nhất là với đại tràng. Nghiên cứu những trƣờng hợp thuyên giảm chứng minh rằng đậu trắng
và đậu Hoà Lan có hiệu quả trong việc hạ giảm lƣợng acid đắng.

J. W. Anderson, American Journal

of Clinical Trinition.

Khảo sát về sức khoẻ và sự vận động năm 84 tìm ra ngƣời làm nghề phải ngồi có 60%

mắc chứng ung thƣ ruột hơn những ai hoạt động đi lại. Nhóm

“thợ”

ngồi gồm kế toán, thợ may,

luật sƣ, nhạc sĩ… Nhóm hoạt động gồm thợ mộc, làm vƣờn, sửa ống nƣớc, bƣu tá đƣa thƣ.

Garbrant trong “Nghề hoạt động và nguy cơ ung thư ruột” tập san American Journal of Epidemiology.

1986, những nhà khoa học Na Uy khám ruột kết cho 155 ngƣời trên 50 tuổi mà có triệu

chứng ung thƣ. Một nửa có những vết mẩn, nửa kia trơn láng là do ăn rau nhiều. Càng ăn ít rau
bao nhiêu càng có nguy cơ bị vất mẩn nhƣ ký sinh, vết này lớn khác thƣờng…

Hoff trong tập san:

Scandinavian Journal of Gastroenterology.

Nghiên cứu những trƣờng hợp thuyên giảm năm 1987 ở nƣớc Bỉ, nhận thấy ăn đƣờng, cả

2 loại môn di saccharide đều liên hệ tới sự tăng bệnh ung thƣ ruột kết và tá tràng, 1,7 lần cho ruột
kết và 2,4 cho tá tràng.

Am. J. Tuyns “Bổ dưỡng & ung thư”.

Mễ cốc, rau quả hạ thấp nguy cơ ung thƣ tá tràng tới 40% theo nhƣ cuộc nghiên cứu năm

1990. Những nhà nghiên cứu tại Trung Tâm Ung Bƣớu Fox Chase ở Philadelphia khám 73 lần
cho 10.000 ngƣời ở 15 nƣớc có kết luận nhƣ trên.

Bruce Tock, Elaine Lanza, & Peter Greenwald, tập

san Journal of the National Cancer Institude.

Phụ nữ mà hay ăn thịt bò, cừu, heo hàng ngày làm món chính, có nguy cơ phát triển ung

thƣ ruột kết gấp 2 lần rƣỡi hơn những ai chỉ ăn mỗi tháng một lần hay ít hơn. Đó là kết luận đƣợc
công bố rút ra từ cuộc khảo sát năm 90 theo dõi 88.751 nữ y tá trong thời kỳ 10 năm, cũng nói
rằng cá và thịt gia cầm đỡ bệnh hơn.

“Thay thế nguồn đạm protein bằng đậu hay đậu đũa, bỏ thịt

trong quần chúng ăn rau giảm thấy rõ trong ung thư ruột kết”

. Ăn trái cây, quả có xơ cũng thấy giảm

nguy cơ mắc ung thƣ. Nhất là trái táo và lê

“Ăn ít thịt càng tốt”

, giáo sƣ Walter Wilett khuyên.

Ông là bác sĩ giảng dạy môn dịch học & dinh dƣỡng tại đại học y khoa Harvard, điều khiển cuộc
nghiên cứu:

“Kể ra chỉ thỉnh thoảng mới nên ăn. Nhưng nếu muốn hiệu nghiệm tối đa thì phải bỏ hẳn

thịt” Walter C. Wilett tập san New England Journal of Medicine đăng lại dưới tiêu đề “Báo động đỏ về
thịt” trên tạp chí Time số ra ngày 2 tháng 12 năm 1990.

Những nhà nghiên cứu của đại học y khoa Harvard báo cáo: Những ai ăn thật ít chất béo,

chiếm 24% số calori, sẽ giảm nửa tỉ số polyp ở ruột kết, polyp, dấu mở màn của ung thƣ. Ngƣời
ăn mỡ bình thƣờng bị gấp hai. Giảm mỡ tối đa chƣa hẳn là giảm nguy cơ mắc bệnh, mà còn ăn
toàn rau, mễ cốc nguyên văn: 6 lần một ngày – six servings a day – hay trái quả thì mới đề phòng

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.