THỰC DƯỠNG NGĂN NGỪA CÁC BỆNH UNG THƯ - Trang 180

Tủ sách Thực Dƣỡng

T

T

h

h

c

c

d

d

ư

ư

n

n

g

g

đ

đ

c

c

t

t

r

r

u

u

n

n

g

g

t

t

h

h

ư

ư

U

U

n

n

g

g

t

t

h

h

ư

ư

d

d

d

d

à

à

y

y

h

h

t

t

t

t

p

p

:

:

/

/

/

/

t

t

h

h

u

u

c

c

d

d

u

u

o

o

n

n

g

g

.

.

v

v

n

n

Trang 122

Từ năm 1904 đến năm 1911, bác sĩ phẫu thuật ngƣời Anh Robert Mc. Carrison đến

Hunza, một vƣơng quốc thuộc dãy Hymalaya xa xôi ở vùng đất tây bắc nƣớc Ấn lúc bấy giờ. Ở
đó, ông ngạc nhiên khi khám phá ra một nơi mọi ngƣời sống hoàn toàn khỏe mạnh, không hề có
các bệnh truyền nhiễm, thoái hóa của nền văn minh hiện đại, trong đó có cả nƣớc Ấn thuộc địa.
Ông nói trƣớc các đồng nghiệp y khoa của mình:

“ Tôi không hề thấy một ca khó tiêu, loét dạ dày,

ruột tá, viêm ruột thừa, viêm ruột kết hay ung thư”.

Mc. Carrison giải thích rằng sức khỏe và tuổi thọ

khác thƣờng mà ngƣời Hunza có đƣợc, trƣớc hết là nhờ bữa ăn hàng ngày gồm toàn bánh mì, lúa
mạch và ngô, cùng các loại rau xanh, đậu, mơ và chút bơ sữa, sữa dê chỉ vào những ngày lễ mới
có. Ngƣời Hunza không ăn gạo trắng đã xát sạch, đƣờng, trà đen, hay các gia vị các loại nhƣ hầu
hết dân Ấn vẫn ăn. Vào năm 1927, Sir Robert Mc Carrison nhận chức Giám đốc nghiên cứu dinh
dƣỡng ở Ấn Độ và để kiểm tra giả thuyết của mình, ông cho xúc tiến hàng loạt thí nghiệm. Cho
chuột ăn thức ăn của ngƣời Hunza và thức ăn bình thƣờng của ngƣời Ấn trong thời gian 4 năm,
ông khám phá ra rằng con nào ăn thức ăn tinh chế theo kiểu mới của ngƣời Bengal và Madras bị
mắc bệnh u nang ( abscesses), bệnh tim và ung thƣ dạ dày. Trong khi chuột ăn thức ăn của ngƣời
Hunza vẫn khỏe mạnh và miễn đƣợc mọi bệnh. Các nguồn:

Robert Mc. Carrison, MD “Faulty

Food in Relation to gastro – International Disoder “Journal of the American medical Association 78
(1922) 1-8 and G.T. Wrench; The Wheel of Health (London: O.W.Daniel 1938).

Một cuộc nghiên cứu trên ngƣời vào năm 1966 cho thấy ngƣời bị ung thƣ dạ dày là do ăn

quá thƣờng xuyên, quá mức các loại thực phẩm chiên rán, đặc biệt là mỡ, thịt muối và mỡ động
vật dùng nấu ăn. Nguồn:

J.Higginson, “Etiological Factors Intestinal Cancer in Man, Journa of

International Cancer Institute 37.527-45.

Năm 1971, một nhà nghiên cứu ung thƣ ngƣời Nhật đã báo cáo về mối liên hệ giữa lƣợng

đậu phụ vào với bệnh ung thƣ dạ dày. Nguồn:

T.Hirayama, “Epidemiology of Stomach Cancer in

Murakemi , Early Gastric Cancer”, Gann Monograph on Cancer research (University of Tokyo press) 1:3-19.

Một cuộc nghiên cứu trên ngƣời vào năm 1974 cho thấy loại thực phẩm chứa nhiều tinh

bột nhƣ bánh mì trắng, đƣờng là thức ăn mà ngƣời bị ung thƣ dạ dày thƣờng ăn. Nguồn:

B.

Modan et al” The roles of starches in the Etiology of Gastric Cancer”, Cancer 34:2087 - 92.

Năm 1978, các nhà nghiên cứu y học đã báo cáo rằng cải Bruxcel, cải bắp, củ cải, cải súp

lơ, cải bông xanh và các loại rau khác chứa nhiều chất

“indole

” làm giảm tỉ lệ ung thƣ dạ dày và

vú ở con vật thí nghiệm khoảng 77%. Nguồn:

L.W.Wattenberg and ED Loub, “Inhibiton of Polycylic

Hydrocarbon – included Neoplasiaby Naturally Occurry Indoles”, Cancer Research 38:1410 – 13.

Năm 1981, trung tâm nghiên cứu ung thƣ quốc gia Nhật đã báo cáo rằng những ngƣời

thƣờng xuyên ăn tƣơng súp miso ít bị mắc bệnh ung thƣ dạ dày hơn 33% so với những ngƣời
không bao giờ ăn tƣơng súp miso. Một công trình nghiên cứu 13 năm huy động đến 365.000 đàn
ông và đàn bà trên 40 tuổi cũng đã khám phá ra rằng súp miso rất có hiệu quả trong vịêc làm
giảm nguy cơ mắc các bệnh huyết áp cao, bệnh tim mọi nguyên nhân dẫn đến tử vong khác. Một
nghiên cứu năm 1981 trên 100 bệnh nhân ung thƣ dạ dày ở Thƣợng Hải cũng cho thấy những
ngƣời thƣờng xuyên uống sữa đậu nành có nguy cơ ít hơn hẳn so với những ngƣời khác. Nguồn:

S.K.S Xing “Persional Communication”, Chinese Journal of Preventive Medicine”, 15-2.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.