Chữ “A” trong cách nói của Madeleine nghe mỗi lúc một rõ, giống giọng
của một đứa trẻ đầu đường xó chợ ở Boston. “Em đến đây trong thời gian
diễn ra chiến tranh phải không?”
“Ừm, có thời gian em làm việc ở trạm bán hàng phục vụ cho trại lính
Camp Cooke. Có một anh lính đánh em sau đó lại có một người đứng ra
cứu, người đó bây giờ là bố dượng của em. Ông ấy cho phép em quan hệ
với ai tuỳ thích miễn là em phải về nhà với ông ấy. Ông ấy mua cho em
chiếc xe trắng đó và những bộ váy đen dài như em đang mặc đây. Ông ấy
làm như vậy bởi vì ông ấy không phải là bố thật của em.”
“Ông ấy tốt thật đấy. Bố anh chỉ mua cho anh chiếc xe đạp và thỉnh
thoảng mới cho vài đồng mua xà phòng. Có điều chắc chắn là ông ấy sẽ
không bao giờ mua cho anh chiếc Packard cả. Em có ông bố thật tuyệt vời,
Betty ạ.”
Tôi khom người nhìn qua khe cửa sổ nhưng chỉ thấy hai bóng tối lờ mờ
trên chiếc giường kê giữa phòng. Madeleine/Betty nói tiếp: “Đôi khi ông
bố dượng cũng không thích bạn trai của em nhưng không bao giờ giận cả.
Có một anh chàng cảnh sát. Bố dượng em nói anh ta là con người ẻo lả, ti
tiện nhưng em không tin vì em thấy anh ta rất khỏe, có bộ răng dài. Anh ta
muốn làm em tổn thương nhưng bị bố dượng ngăn lại. Bố em biết cách điều
trị những tay đàn ông yếu ớt muốn vòi tiền rồi lại đòi làm đau những cô gái
đẹp. Bố em là anh hùng vĩ đại trong chiến tranh còn anh chàng kia chỉ là kẻ
nhút nhát chuyên chạy trốn.”
Giọng Madeleine bây giờ đã hạ thấp và kéo dài. Tôi ôm tay trước ngực
cố đứng nghe họ tấn công bằng lời nói.
“Bọn nhút nhát đáng bị xử tử hoặc trục xuất khỏi đất nước này. Không,
bắn chúng thì vẫn còn nương tay quá. Treo cổ chúng bằng… em biết rồi
còn gì. Thậm chí hơn thế mới đáng.”
Bây giờ Madeleine lại chuyển sang giọng Mêhicô đặc sệt. “Dùng rìu
chém chúng được không? Anh chàng cảnh sát kia còn có một người bạn.
Hắn viết cho em mấy lời mà đáng ra không nên làm như vậy với những cô