họ cảm thấy. Trong chớp mắt, khuôn mặt anh dường như thay đổi − sau vẻ
bề ngoài tĩnh lặng ấy là sự linh lợi.
“Em không cần phải hỏi về anh ấy, phải không? Nếu anh biết chuyện gì
anh sẽ kể cho em nghe, phải không?” Sethe nhìn xuống chân mình và lại
nhìn thấy những cây sung dâu.
“Anh sẽ kể cho em nghe. Dĩ nhiên, anh sẽ kể cho em nghe. Hiện giờ anh
không biết gì hơn lúc trước.” Ngoại trừ chuyện thùng đánh bơ, anh nghĩ, và
em không cần biết điều ấy. “Chắc em nghĩ anh ấy vẫn còn sống.”
“Không. Em nghĩ anh ấy đã chết. Điều làm cho anh ấy còn sống là vì
chưa ai biết chắc đó thôi.”
“Baby Suggs thì sao?”
“Bà cũng nghĩ thế, nhưng nếu nghe theo bà thì con bà đều đã chết cả. Bà
nói bà cảm thấy cái chết của mỗi người đúng từng giờ từng phút.”
“Bà nói Halle đi lúc nào?”
“Năm một ngàn tám trăm năm mươi lăm. Ngày con em ra đời.”
“Em sinh nó ra hả? Anh tưởng em không xoay sở được kia.” Anh cười
khẽ. “Ai đời bỏ trốn lúc mang thai.”
“Phải vậy thôi. Làm sao chờ được.” Chị cúi đầu và, cũng như anh, nghĩ
rằng chuyện chị xoay sở được là điều rất khác thường. Và nếu không có cô
gái đi tìm vải nhung, chị sẽ không bao giờ làm nổi.
“Và làm được một mình nữa.” Anh vừa hãnh diện vừa bực mình. Hãnh
diện vì chị xoay sở được, bực mình vì chị đã không cần đến Halle hay
chính bản thân anh.
“Gần như một mình. Không hẳn một mình. Một cô gái da trắng đã giúp
em.”
“Thế thì cô ấy cũng tích phước cho mình nữa. Chúa ban phước cho cô
ấy.”