của nó. Cả chị lẫn anh đều không mang giày. Háo hức, e thẹn, bây giờ
Denver thấy lẻ loi. Từng ấy sự chia ly: đầu tiên là hai anh, rồi bà nội − đấy
là những mất mát kể từ khi không còn lũ trẻ nào chịu chơi trò xoay vòng
quanh nó, hay kẹp đầu gối qua lan can hàng hiên nhà nó lộn người xuống.
Những điều ấy cũng không quan trọng gì nếu mẹ nó không nhìn lảng đi
như bây giờ, khiến Denver mong mỏi, quả thật mong mỏi, một dấu hiệu
hằn học của hồn ma đứa bé.
“Con bé xinh thật,” Paul D nói. “Rất xinh. Khuôn mặt dễ thương giống
ba nó.”
“Bác biết ba cháu à?”
“Biết chứ. Biết rõ.”
“Phải thế không hở mẹ?” Denver cố giữ cho tình cảm của mình không
thay đổi.
“Dĩ nhiên bác biết ba con. Mẹ đã bảo con rồi, bác là người của Tổ Ấm.”
Denver ngồi xuống bậc thang chót. Nó không còn chỗ nào để đi. Họ là
một cặp, nói “ba cháu” và “Tổ Ấm” theo cách rõ ràng rằng cả hai là của họ
và không phải của nó. Rằng sự thiếu vắng cha nó không phải là sự thiếu
vắng của nó. Đã có lúc sự thiếu vắng là của bà nội Baby − đứa con trai
được thương tiếc vô cùng vì cha là người chuộc bà nội ra khỏi nơi ấy. Rồi
đấy là người chồng vắng mặt của mẹ nó. Bây giờ đấy là người bạn vắng
mặt của người lạ da màu hạt phỉ. Chỉ có những người biết ông (“biết rõ”)
mới có thể giành lấy sự thiếu vắng ông cho riêng họ. Cũng như chỉ có
những người sống ở Tổ Ấm mới có thể nhớ đến chuyện ấy, thì thào tên của
nó và đồng thời liếc xéo lẫn nhau. Một lần nữa nó mong mỏi hồn ma đứa
trẻ − bây giờ niềm căm giận của đứa bé khiến nó náo nức thay vì làm nó
mệt nhoài như mọi khi. Làm nó mệt nhoài.
“Mẹ và cháu có một hồn ma ở đây,” nó nói, và câu nói hiệu nghiệm. Họ
không còn là một cặp nữa. Mẹ nó thôi đong đưa chân, thôi cư xử như một
cô gái mới lớn, và ký ức về Tổ Ấm biến khỏi đôi mắt người đàn ông đã