giờ nghĩ ra được điều ấy. Không bao giờ. Sixo, anh ấy đã dạy em nhiều
lắm.”
Anh thấy choáng váng. Thoạt tiên anh nghĩ vì chị xoay tròn. Vòng quanh
anh như chị đang vòng quanh đề tài. Vòng vòng, không bao giờ đổi chiều,
một điều không chừng sẽ giúp đầu anh bớt choáng váng. Rồi anh nghĩ,
Không, vì giọng nói của chị: giọng nói chị gần quá. Mỗi vòng chị xoay
cách chỗ anh ngồi ít nhất ba thước, nhưng lắng nghe chị nói giống như có
một đứa trẻ thì thầm vào tai gần đến nỗi người ta có thể cảm thấy môi nó
đang hình thành lời nói mà người ta không hiểu nổi vì đôi môi quá gần.
Anh chỉ nghe thấy các mảnh của lời chị nói − cũng không sao, vì chị chưa
nói đến phần chính − câu trả lời cho câu hỏi anh chưa hỏi thẳng, câu hỏi
nằm trong mảnh báo anh đưa cho chị xem. Và cũng nằm trong nụ cười. Vì
anh cũng mỉm cười, khi anh đưa nó cho chị xem, để khi chị phá lên cười vì
trò đùa − sự lẫn lộn đã đặt khuôn mặt chị vào chỗ đáng lẽ phải có khuôn
mặt của một người phụ nữ da đen nào khác − anh sẽ sẵn sàng cười chung
với chị. “Em tin nổi không?” Anh sẽ hỏi. Và chị sẽ khúc khích cười:
“Stamp mất trí rồi. Mất trí hoàn toàn.”
Nhưng nụ cười của anh không có dịp nở rộng ra. Nó treo lơ lửng, nhỏ bé
và lẻ loi, trong khi chị xem xét mảnh báo và trả nó lại cho anh.
Có lẽ vì nụ cười, hay có thể vì chị nhìn thấy tình yêu lúc nào cũng sẵn
sàng trong mắt anh − dễ dàng và thẳng thắn, cách những con ngựa, thiên
thần và trẻ con nhìn một người: với tình yêu người ấy không cần phải xứng
đáng − mà chị tiếp tục và kể cho anh nghe điều chị chưa kể với Baby
Suggs, người duy nhất chị cảm thấy cần phải giải thích cho nghe về mọi
chuyện. Nếu không chị sẽ nói điều tờ báo nói chị nói và chỉ thế thôi. Sethe
chỉ nhận biết được bảy mươi lăm chữ in (nửa số chữ ấy có mặt trong mảnh
báo), nhưng chị biết những chữ chị không hiểu cũng không giải thích được
mọi chuyện rõ hơn chị. Chị thử vì nụ cười và tình yêu thẳng thắn.
“Em không cần phải nói với anh về Tổ Ấm − nó đã là cái gì − nhưng
chắc anh không biết em cực khổ ra sao mới rời được chỗ ấy.”