Ấm − không xuôi thuận đến nỗi chị không bao giờ thách thức cuộc đời
bằng cách dự tính thêm nữa.
Dù thế, buổi sáng chị thức dậy bên cạnh Paul D, chữ con chị đã dùng
mấy năm trước thoáng qua đầu chị, và chị nghĩ đến chiếc áo quỳ bên cạnh
chị mà Denver đã thấy, và cũng nghĩ đến sự cám dỗ của lòng tin và hồi
tưởng, sự cám dỗ đã ghì chặt lấy chị khi chị đứng trước bếp lò trong vòng
tay anh. Chị có được phép không? Chị có được phép cảm xúc không?
Nương dựa vào điều gì đấy có được không?
Nằm bên anh và lắng nghe tiếng anh thở, chị không thể nghĩ được rành
rọt, vì thế chị thận trọng, thận trọng rời khỏi giường.
Quỳ trong phòng khách nơi chị thường đến để nói-nghĩ, chị hiểu lý do tại
sao Baby Suggs đói màu sắc. Không có màu sắc nào trong căn phòng trừ
hai miếng vải vuông màu cam trong tấm chăn ghép, chúng khiến sự thiếu
vắng màu sắc càng nổi bật lên. Tường phòng màu xám đen, sàn phòng màu
đất nâu, tủ áo gỗ màu gỗ tự nhiên, màn cửa màu trắng, và nét nổi bật là tấm
chăn ghép trên một cái giường sắt nhỏ, được may bằng những miếng vải
vụn màu xanh, vải len màu đen, nâu và xám − những màu tối và chìm của
tính tằn tiện và khiêm tốn. Trong khoảng không gian ảm đạm ấy, hai mảnh
màu cam trông hoang dã − như đời sống nguyên sơ.
Sethe nhìn hai bàn tay mình, cánh tay áo màu xanh vỏ chai, và nghĩ căn
nhà ít màu sắc làm sao, và lạ lùng là chị không thấy thiếu nó như Baby đã
thấy thiếu. Chị cố ý, chị nghĩ, phải là chị cố ý, vì màu sắc cuối cùng chị
nhớ được là những đốm hồng trên tấm bia mộ của con bé con chị. Sau đó
chị nhìn màu sắc không rõ hơn một con gà mái. Mỗi sáng sớm chị làm
bánh trái cây, các món ăn bằng khoai tây và rau trong khi đầu bếp nấu xúp,
thịt và các món còn lại. Thế mà chị không nhớ nổi một trái táo xanh hay
một quả bí vàng. Mỗi sáng sớm chị nhìn thấy bình minh, nhưng không bao
giờ nhận biết hay bình phẩm về màu sắc của nó. Có điều gì không ổn trong
chuyện ấy. Như thể một ngày chị nhìn thấy máu đỏ trẻ thơ, một ngày khác
những đốm hồng trên bia mộ, và thế là hết.