-------
[1] Tôi dịch theo bản chữ Pháp của: Takakazu Fukase, Héritage et actualité
de l ancienne culture institutionnelle japonaise (à propos de la Charte de
17 articles du prince dauphin Shotoku), Revue internationale de Droit
constitutionnel, 1985, và bản chữ Anh trong Philosophy-East and West,
Charles A. Moore (ed.), Freeport, New York, reprinted 1970.
[2] Nội các Ôhira bị lật đổ ngày 16-5-1980 bởi 240 phiếu chống, 187 phiếu
thuận và 73 người không bỏ phiếu: đó là 73 dân biểu của đảng Tự do dân chủ
thuộc phái Fukuda và Miki. 73 người đó giết chết chính phủ Ôhira.
[3] Ngôn tránh là tranh cãi về pháp tướng đúng hay sai; do tranh cãi ấy mà
khởi lên bất hóa trong chúng tăng. Mích tránh là do sự tìm lỗi của người khác
mà khởi lên tranh cãi. Phạm tránh là bình luận sự phạm giới của tỷ kheo
khác, hư hay thật, đúng hay không đúng. Sự tránh là tranh cãi về việc kiết
ma. Kiết ma là phương thức biểu quyết để xử lý mọi công việc.
III - ÐẠO PHẬT TRONG LUẬT CỔ NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM.
Ở trên, tôi đã nói rằng Nhật chịu ảnh hưởng Khổng giáo. Bây giờ, phải nói
rằng Nhật là một nước Phật giáo. Ðọc trong lịch sử Phật giáo ở Nhật, tôi thấy
các sách nhấn mạnh vai trò của Thánh Ðức thái tử mà tôi đã trình bày ở trên.
Thánh Ðức làm tôi nghĩ đến thời Lý, Trần của ta. Vì vậy tôi muốn nói vài lời
về ảnh hưởng Phật giáo trên chính trị và luật ở thời Thánh Ðức và thời Lý,
Trần.
Ðạo Phật được truyền vào Nhật hồi thế kỷ thứ 6. Trước đó, nước này không
có suy tư về triết lý. Tín ngưỡng của dân gian lúc đó là thần đạo (Shinto) rất
đơn giản trong sự sợ hãi thiên nhiên. Ðơn giản có một vẻ đẹp riêng của nó.
Và người Nhật thấy thiên nhiên có một vẻ đẹp đơn giản. Có lẽ đây là một nét
chính trong tâm hồn và văn hóa của Nhật. Người Nhật thích thơ, thích họa
hơn là thích suy tư triết lý, trái với Trung Hoa, trái với Ấn Ðộ. Ngôn ngữ của
Nhật cũng vậy, giàu về âm điệu nhưng mông lung, khó suy luận chặt chẽ. Vì
vậy mà tư tưởng về luật cũng không nảy nở được. Nói tóm: người Nhật có