Ta không hẳn là kẻ hiền, họ không hẳn là kẻ ngu. Ai cũng có thể lung lạc, sai
quấy như nhau. Như vậy làm sao có người phán ra một nguyên tắc theo đó
cái gì phải là đúng, cái gì phải là sai? Mọi người ai cũng vừa là khôn vừa là
dại; giống như cái vòng, không có chỗ nào là đầu, không có chỗ nào là đuôi.
Bởi vậy, dầu người khác buông lòng phẫn nộ với ta, ta nên sợ lầm lỗi của ta
hơn và, mặc dầu ta tưởng rằng chỉ có ta biết sự thật, hãy nghe theo quần
chúng và hành động như họ".
Tôi không nói cái này là hay đâu. Nhưng hãy đọc điều này trong bối cảnh
lịch sử, chính trị, văn hóa của Nhật lúc đó và trong cái nhu cầu chấm dứt
chiến tranh liên miên, giữa các lãnh chúa, đặt nền móng cho một quốc gia
thống nhất, hòa bình – nhu cầu dựng nước. Thánh Ðức là người dựng nước.
Mà cũng đừng tưởng rằng Thánh Ðức không biết phân biệt phải trái. Vua dạy
phải biết vun trồng ý thức chuộng điều thiện, ghét điều xấu. "Phạt kẻ làm ác,
thưởng kẻ làm lành, đó là luật tốt thời trước. Bởi vậy, đừng che dấu những
hành động tốt của bất cứ người nào và hãy trừng trị, sửa chữa những hành
động xấu của họ. Quan chức nịnh hót và lừa dối... phải được xem như những
khí cụ tệ hại để phá hủy nhà nước, như thanh gươm bén để chém dân tộc"
(điều 6).
Khuyến thiện trừng ác: võ sĩ đạo về sau triệt để khai thác điều này, dù chết
cũng không làm trái đạo.
Sách Nhật thường ví vua Thánh Ðức với vua A-dục (Ashoka) của Ấn Độ
(273-232 trước TL). Lại ví vua Thánh Ðức với vua Songtsan-Gampo dựng
nước Tây Tạng vào khoảng thời gian giống nhau. Songtsan-Gampo cũng ban
hành đạo dụ 16 điều tương tự hiến chương 17 điều của Thánh Ðức. Dù ở
Nhật, dù ở Tây Tạng, chính trị và luật hồi đó mang hình thức đạo đức, là
những nguyên tắc đạo đức. Ðạo đức cho dân gian mà cũng là đạo đức mà
quan chức phải theo. Ðạo Phật mang đến cho Thánh Ðức một khái niệm phổ
quát về luật. Luật áp dụng cho người – dù là người Nhật – là những luật áp
dụng cho mọi người, bởi vì nó đúng cho mọi người.