cùng nản lòng nhụt chí, vứt bỏ đi ý niệm phục thù. Chỉ là, vị đại toán gia đó
mang trên người vô số tội danh, suốt cả cuộc đời, đều bị thế nhân oán hận”.
Ngư hoà thượng nói đến đây, không nói thêm nữa, đứng dậy đi về phía
tây. Hai người đi được một đoạn, mặt trời đã giữa trưa. Lục Tiệm thấy bên
đường đằng xa có một toà lữ xá, tường trúc mái thấp, trước cửa vắng lặng,
lập tức đề nghị nghỉ ngơi ở đây.
Ngư hoà thượng đồng ý, hai người đến trước cửa, Lục Tiệm thấy trong
nhà lờ mờ tối, bèn cao giọng nói: “Có người không?”.
Gọi liền hai tiếng, từ trong cửa mới đi ra một bà lão lưng còng, mặt đầy
nếp nhăn, hai mắt vẩn đục vô cùng, tựa hồ có chút e sợ, nhìn hai người một
cái, bèn lùi lại nửa bước, thụt lại dưới mái tranh, rít giọng nói: “Thì ra là
hoà thượng xin cơm”.
Nên biết Oa quốc sùng tín Phật pháp, tăng nhân hành tẩu ở trong nước,
không bao giờ phải lo đói khát, do đó lão bà đó vừa thấy cách ăn mặc của
Ngư hoà thượng, liền biết mục đích đến, hừ nhẹ một tiếng, nói: “Vào đi”.
Ngư hoà thượng thi lễ nói: “Nữ thí chủ, làm phiền rồi”. Lão bà im lặng
lùi lại. Hai người vào trong, mũi ngửi thấy một mùi cũ kỹ, vấn vít không
bay đi, đoán là lâu rồi không có người đến, tro bụi rải rác trên góc tường bệ
cửa sổ. Chợt thấy lão bà đó từ phòng trong đi ra, bưng ra một mâm tre, trên
mâm đặt mấy nắm cơm trắng.
Lục Tiệm thấy lão bà này cùng khổ như vậy, lại còn ân cần đãi khách,
trong lòng cảm kích, mò ra trên người mấy đồng tiền, nhét vào tay của lão
bà, nói: “Lão bà bà nhận lấy”.
Lão bà đó cầm lấy tiền, mắt cũng không nhìn lên, thì thầm nói nhỏ:
“Trước giờ chỉ có hoà thượng xin tiền, lại có hoà thượng cho tiền sao?”.
Lục Tiệm nói: “Ta không phải là hoà thượng, tự nhiên cần cho tiền.”