nhác bước tới và Địch Nhân Kiệt gọi một bát mì. Ông đã tìm hiểu cách ứng
xử của dân hạ lưu nên có thể thoải mái sử dụng cách nói lóng của họ, ấy thế
nhưng tiểu nhị vẫn nhìn ông vẻ ngờ vực.
“Này tên lạ mặt kia, ngươi từ đâu tới vậy?” Gã hỏi với giọng gắt gỏng.
Địch Nhân Kiệt lo ngại hiểu ra mình đã quên mất thực tế là ở một chốn nhỏ
biệt lập như vậy, bất cứ người lạ nào cũng dễ dàng bị nhận ra. Ông vội trả
lời, “Ta mới từ Kinh Bắc tới chiều nay. Mà cái đó thì liên quan gì tới ngươi!
Tiền trao cháo múc. Vào lấy mì đi!”
Tiểu nhị nhún vai rồi lớn tiếng báo khách gọi mì vào trong bếp ở đằng sau.
Đột nhiên mành cửa bị gạt mạnh sang bên và hai nam nhân bước vào quán.
Kẻ thứ nhất cao lớn vạm vỡ, quần rách như khố tải, thân trên mặc áo sát
nách, để trần hai cánh tay dài đầy cơ bắp. Hắn có khuôn mặt gần như hình
tam giác với bộ râu ngắn cứng đơ và bộ ria rễ tre. Kẻ còn lại mảnh khảnh,
thân mặc trường sam sờn rách, mắt trái đắp một miếng cao đen. Gã huých
khuỷu tay vào kẻ đồng hành với mình rồi chỉ vào Địch Nhân Kiệt.
Bọn chúng nhanh chóng bước tới chỗ bàn ông rồi ngồi xuống hai bên.
“Ai mời các ngươi ngồi đây hả cẩu trệ?” Địch Nhân Kiệt càu nhàu.
“Im mồm, tên bẩn thỉu chõ mũi vào việc của kẻ khác!” Tên cao to rít lên.
Địch Nhân Kiệt cảm thấy một mũi chuỷ thủ kề vào sườn mình. Gã chột mắt
áp sát vào ông, người gã tỏa ra mùi tỏi nồng nặc cùng mùi mồ hôi lưu cữu
lâu ngày. Gã trề môi nói, “Chính mắt ta đã trông thấy ngươi bỏ túi một
đồng xu ngoài chợ. Ngươi nghĩ đám khất cái bọn ta sẽ cho phép một tên
ngoại đạo bẩn thỉu cướp bát cơm của mình à?”
Trong chớp mắt, Địch Nhân Kiệt nhận ra toàn bộ sự ngu ngốc của mình.
Với việc hành nghề khất cái khi chưa gia nhập cái bang, ông đã phạm phải
những quy luật bất thành văn từ xa xưa.