Đột nhiên Địch Nhân Kiệt bật ngồi thẳng dậy, cả hai bàn tay bấu chặt lấy
cạnh án. Nhắm mắt lại, ông hồi tưởng cuộc trò chuyện trong Phật đường
giữa đêm khuya. Trong đầu Địch Nhân Kiệt, nữ tử xinh đẹp đó đứng đối
diện với ông, dùng bàn tay mảnh mai chỉ vào những chữ khắc trên bản
ngọc án thờ. Ông nhớ rõ những chữ đó được bố trí thành một hình vuông
hoàn hảo. Thùy Liễu đã nói mỗi từ được khắc trên một miếng ngọc riêng
rẽ. Vậy là tấm bảng ngọc đó hình vuông và được chia thành những khối
hình vuông nhỏ hơn. Kỷ vật còn lại từ Hàn ẩn sĩ, thế cờ nọ, cũng gồm một
hình vuông được chia thành các hình vuông…
Địch Nhân Kiệt mở một ngăn kéo ra, ném bừa giấy tờ trong đó xuống sàn
nhà, hối hả tìm kiếm bản sao lại các nét chữ khắc trên ngọc mà Thùy Liễu
đã đưa cho mình.
Ông tìm thấy tờ giấy cuộn tròn ở trong cùng ngăn kéo rồi nhanh chóng mở
nó ra, trải trên án và đặt một cái chặn giấy đè lên mỗi đầu. Đoạn ông lấy tờ
giấy in thế cờ ra và để bên cạnh bản sao các chữ khắc, so sánh hai tờ giấy.
Bản kinh Phật gồm đúng sáu mươi tư chữ, được chia thành tám cột, mỗi cột
tám chữ. Quả là một hình vuông hoàn hảo. Địch Nhân Kiệt cau mày. Thế
cờ cũng là một hình vuông, nhưng ở đây mặt bàn cờ lại được chia thành
mười tám cột, mỗi cột gồm mười tám ô vuông. Cho dù sự tương đồng trong
bố trí có một ý nghĩa đặc biệt nào đó, liệu một bản kinh Phật và một thế cờ
có thể có mối liên hệ gì chứ?
Địch Nhân Kiệt buộc mình phải bình tĩnh suy nghĩ. Đoạn văn bản này được
sao y nguyên từ một cuốn kinh Phật cổ trứ danh, khó có thể che giấu một
ẩn ý khi mà thứ tự các chữ không thay đổi đáng kể. Do đó, manh mối về
mối quan hệ giữa hai thứ này rõ ràng ẩn chứa trong thế cờ.
Ông chậm rãi xoắn chòm râu. Không còn nghi ngờ gì nữa, thế cờ này thực
ra không phải là thế cờ! Kiều Thái đã nhận thấy các quân trắng và quân đen
dường như được bố trí một cách ngẫu nhiên, nhất là vị trí các quân đen