218
b
ệnh. Trích máu được dựa trên một hệ thống y học cổ đại trong đó máu và những chất lỏng
khác c
ủa cơ thể được xem là “thể dịch” và cần phải được giữ cân bằng để duy trì sức khỏe –
theo Wikipedia)
. Các bác sĩ sẽ cố gắng để bào chữa cho việc tiêm chủng một thời gian dài
sau khi nó đã bị mất tín nhiệm, cũng như là họ đã cố gắng để bào chữa cho việc trích máu
trong nhi
ều năm sau khi nó bị truất ngôi. Tuy nhiên, việc bào chữa cho tiêm chủng sẽ là đặc
bi
ệt ngoan cố, bởi một yếu tố khác đã tham gia: không giống như những người thực hành
trích máu trước đây, những người thực hành tiêm chủng đã đạt tới cấp độ nhà nước và đã
tranh th
ủ được sức mạnh của nhà nước để ép buộc sự tuân thủ.
V
ậy còn cái thuật ngữ Y tế dự phòng (Preventive Medicine)? Cụm từ này cũng cần được cải
bi
ến. Khi chúng ta nghĩ tới việc phòng ngừa, chúng ta tập trung năng lượng vào việc phòng
tránh m
ột tình trạng không mong muốn thay vì việc tạo dựng một tình trạng mong muốn. Bất
c
ứ cái gì mà chúng ta tập trung năng lượng vào sẽ trở nên mở rộng. Liệu ta muốn có nhiều
hơn những tình trạng không mong muốn và nhiều hơn những cách để phòng tránh nó? Vậy
còn t
ừ Y tế? Đối với hầu hết chúng ta, nó gợi nên việc sử dụng một thứ không dễ chịu để loại
b
ỏ một điều khó chịu. Làm cách nào để chúng ta thay đổi tính tiêu cực này sang tích cực?
N
ếu mục đích của ta là việc tạo dựng và củng cố sức khỏe, vậy tại sao lại không gọi chương
trình chăm sóc sức khỏe của chúng ta đơn giản là một: chương trình chăm sóc sức khỏe?
(xem B
ảng 6).
Nhưng quan trọng hơn, từ Y tế đã bị làm cường điệu trong nền văn hóa của chúng ta. Nó đã
được sử dụng khi nói đến một hệ thống chăm sóc sức khỏe mà đã độc quyền thị trường chăm
sóc s
ức khỏe trong một thời gian quá dài. Nghiên cứu y học, khoa học ngành y, lời khuyên y
t
ế, thẩm quyền y tế và giám sát y tế là những thuật ngữ mà chúng ta sử dụng một cách tự
động cứ như là cái mô hình y tế là tuyệt đối, như sự thực hiển nhiên. Việc sử dụng những
thu
ật ngữ khác như nghiên cứu chăm sóc sức khỏe hay giám sát chăm sóc sức khỏe có thể
giúp cho chúng ta m
ở rộng với những khả năng của những mô hình khác, những cách tiếp
c
ận khác.
M
ột khi chúng ta bắt đầu đổi mới ngôn từ, sự mê mẩn của chúng ta đối với khoa bệnh lý học
và s
ự xếp loại của nó sẽ đạt đến một sự nhận thức tổng thể hơn về mối quan hệ giữa sức khỏe
và b
ệnh tật. “Bệnh tật không là gì khác ngoài việc cuộc sống dưới những điều kiện bị biến
đổi”, nhà bệnh lý học Rudolf Virchow nhắc nhở chúng ta. Và nó chính là những điều kiện
(tr
ạng thái, môi trường – conditions) mới nên là đối tượng của khoa bệnh lý học, không phải
là b
ệnh tật, ông thêm [22]. Vô số các khả năng của cái toàn thể, cái lành mạnh, cái cái tối ưu,
và nh
ững điều kiện tạo ra chúng sẽ là công việc của hệ thống chăm sóc sức khỏe của ngày
mai.
V
ậy còn việc đổi mới một vài trong số những yếu tố hủy hoại hơn của những ngành công
nghi
ệp Y – Dược và hóa nông nghiệp? Làm sao để trang bị lại những ngành này để sản xuất
ra nh
ững hàng hóa mang tính khuyến khích sinh học và sinh thái hơn như phân ủ (compost),
th
ực phẩm hữu cơ, thực phẩm bổ sung tự nhiên và hữu cơ, những nguồn năng lượng khuyến
khích sinh thái, và đào tạo những lao động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe? Chúng ta có