63
25 tháng 6 năm 1951, có tựa đề “Đề phòng bệnh Bại liệt” tuyên bố: “các nhà nghiên cứu trên
ba châu l
ục đã báo cáo rằng khi một đứa trẻ mắc chứng bại liệt sau khi tiêm chủng, tình trạng
tê li
ệt hầu như xuất hiện ở chính cái cánh tay hoặc chân mà đã được tiêm trước đó. Bởi lý do
đó mà Sở y tế thành phố New York đã đình chỉ việc tiêm chủng bệnh bạch hầu và ho gà tại
76 tr
ạm y tế cho trẻ em cho đến ngày mồng Một tháng Mười” [55].
Bác
sĩ William Frederick Koch đã phát biểu về trường hợp này mạnh mẽ hơn. “Việc tiêm bất
c
ứ một huyết thanh, vắc – xin, hay thậm chí penicillin đã cho thấy một sự gia tăng rất đáng kể
t
ỷ lệ mắc bệnh bại liệt, ít nhất là 400 %. Các con số thống kê về điều này là thuyết phục,
không ai có th
ể phủ nhận nó” [56].
Bây gi
ờ chúng ta có các vắc – xin bại liệt – Salk và Sabin – cả hai đều đã được biết là gây ra
b
ệnh bại liệt. Trong thực tế, một nhà vi rút học của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh (CDC),
bác
sĩ Larry Schonberger, đã nói rằng bệnh bại liệt do vắc – xin đã trở thành phổ biến hơn các
vi rút t
ự nhiên [57]. Như chúng tôi đã nói trước đó, hầu hết các trường hợp này được phân
lo
ại thành bệnh viêm màng não do vi rút hoặc vô trùng; đây cũng là một loại bệnh có thể
được gây ra bởi việc tiêm chủng. Một nhà nghiên cứu đã phát hiện các kết nối rõ ràng giữa
các mũi tiêm DPT và sự gia tăng của bệnh viêm màng não [58]. Bây giờ chúng ta có thuốc
ch
ủng ngừa viêm màng não (Hib) để ngăn ngừa bệnh viêm màng não. Một nghiên cứu của
Minnesota cho th
ấy rằng vắc – xin đó làm tăng nguy cơ viêm màng não gấp năm lần!” [59].
V
ậy còn bệnh ung thư? Bệnh này từ lâu cũng đã gắn liền với việc tiêm chủng, cũng như nó
có bi
ến thể của nó, bệnh máu trắng. Một bài báo trên tờ Medical News (ngày 26 Tháng 3 năm
1956) đặt câu hỏi, “Liệu có phải bệnh bạch cầu là một ‘bệnh nhân tạo’?” Một nhóm các nhà
nghiên c
ứu tại Trường Y của Đại học Utah tin rằng trong một số trường hợp thì nó là đúng
như vậy. “Các nhà khoa học tin rằng các tác nhân tiêm chủng được sử dụng để ngăn ngừa
m
ột bệnh lúc nhỏ nào đó, hoặc các loại thuốc để điều trị những bệnh khác, thực sự có thể
tăng cường sự phát triển của bệnh bạch cầu” [60].
Năm 1974, bác sĩ Frederick Klenner viết cho Kalokerinos và Dettman tại Úc: “Nhiều người ở
đây đã ám chỉ một cách im lặng rằng vắc – xin Salk và vắc – xin Sabin, được làm từ mô thận
c
ủa khỉ, là nguyên nhân trực tiếp cho sự gia tăng đáng kể của bệnh bạch cầu ở đất nước này”
[61]. Trong cu
ốn sách Bạn có thể làm chủ bệnh tật (You can Master Disease), xuất bản vào
năm 1952, bác sĩ Bernard Jensen trích dẫn các bác sĩ ở Anh, Canada, và Mỹ, bao gồm cả các
chuyên
gia ung thư; tất cả đều có cùng một kết luận về một liên kết chắc chắn giữa việc tiêm
ch
ủng và bệnh ung thư [62]. Những khám phá mới đây của các nhà nghiên cứu về sự liên
quan gi
ữa bệnh ung thư và tiêm chủng – được thảo luận trong Chương 2 – không phải là mới,
chúng ch
ỉ chính xác hơn và được phát biểu một cách khoa học hơn.
Các nhà khoa h
ọc đang cố gắng tìm ra các vắc – xin không chỉ cho bệnh ung thư mà còn cho
b
ệnh dị ứng, đa xơ cứng, và viêm khớp, đều là những căn bệnh có liên quan tới vắc – xin.
AIDS (m
ột biến thể của ung thư) có lẽ là ví dụ rõ ràng nhất của sự quay vòng của bệnh tật.
V
ắc – xin và thuốc đã được cho là nguyên nhân chính của bệnh AIDS, nhưng chúng cũng là
m
ột phần của cái giải pháp chính thức (xem Chương 8).