Đã tới giờ đi tới phòng bà bá tước. Tôi ra hiệu cho Kafí, nhưng nó nằm
yên không nhúc nhích. Đây không phải là thói quen của nó. Mãi cho tới khi
thấy tôi định bước ra, nó mới vùng đứng dậy.
- Lạ thiệt ! - Mady nói, - Có vẻ nó bịnh... Thôi chắc là lon đồ hộp ! Nó
hư rồi !
Tôi cúi xuống con Kafi, đúng, nó bịnh ! Cứ từng chập, nó lại rướn cổ ra
như thể muốn ói.
Sao tôi lại ngu đến nỗi để nó ăn một lon thịt hộp mua từ đời kiếp nào !
- Phải cho nó uống sữa, - Bistèque nói. - Đó là món giải độc hay nhứt.
Cùng với Mady, tôi kéo Kafi xuống bếp bởi vì nó đi không nổi nữa.
Jacqueline đang ở đó, tôi hỏi xin sữa. Bình thường chị ta không thích Kafi,
nhưng lần này có vẻ mủi lòng:
- Đúng rồi, nên cho nó uống sữa. Nhưng xui quá, hết sữa rồi. Cho nó
uống thuốc tiêu mặn đi. Nó sẽ giúp tiêu hoá món thịt khốn kiếp đó.
Chị ta đổ một nhúm bột trắng vào trong tô nước, và Kafi đã uống cạn
một hơi dù mùi khó chịu. Ngay sau đó, con chó có vẻ bớt đau, nhưng khi
tôi muốn dắt nó đi thì nó đi không nổi. Tôi có nên ở lại với nó không ?
Đành không tới phòng bà bá tước nữa...
- Đừng. Không can gì đâu. Kafi không chết vì một chút xíu này đâu. Để
tớ và Mady lo cho nó. - Bistèque nói.
Tôi để Kafi ở lại. Bà bá tước đang bồn chồn vì tôi tới trễ. Bà rất buồn khi
nghe tin Kafi: bà trông cậy ở nó nhiều hơn ở tôi! Tôi trấn an bà bằng cách
chỉ cho bà thấy cái máy bộ đàm.
- Cái máy gì vậy ? - Bà hỏi.
Bà không hề biết tới máy bộ đàm. Sống cô đơn trong toà lâu đài, không
truyền hình, không ra-đi-ô, bà tựa như lạc hậu cả thế kỷ. Khi tôi giải thích
rằng nhờ cái máy này tôi có thể liên lạc với mấy đứa bạn ở chỗ khác, thì bà
an tâm hẳn.
Cũng như dêm trước, tôi nằm dài trên đi văng và cương quyết không để
cho giấc ngủ lôi đi, vì đâu còn Kafi ở đây để thức tôi dậy nữa. Nhưng rồi
tôi nghĩ lại. Nếu con ma từ vườn tới phía cửa sổ, thì nó nhận ra tôi mất.