doanh thu cụ thể từ đây...” Bà ấy lật lật vài tờ giấy.
“Ra ngoài!” đột nhiên ông ta rống lên, và tất thảy mọi người đều
nhảy dựng lên ngoại trừ cô Mary bình tĩnh, người lại lần nữa cư xử
như thể không nghe thấy ông ta. “Chúng tôi đang có một cuộc họp,
đáng lẽ anh nên gọi trước.” Tôi không biết sao ông ta thấy chúng tôi
vào được vì chúng tôi bị kẹt sau cái xe đẩy và gần như chẳng thấy
được ông ta nữa kìa.
“Đi thôi,” Adam nói, dợm quay gót.
“Đợi đã.” Tôi với tay chụp tay anh ta lại. Tôi khóa cửa và nhốt anh
ta trong phòng. “Hôm nay chúng ta sẽ làm việc này,” tôi thì thầm.
Người phụ nữ phát đồ ăn tối đặt cái khay lên bàn trước mặt ngài
Basil.
“Cái gì thế này? Nhìn như cứt ấy.”
Người phụ nữ trùm lưới bao tóc nhìn ông ta, chán chường, dường
như đã quen với những câu sỉ nhục. “Đây là bánh khoai tây nghiền và
thịt cừu, thưa ngài Basil.” Bà ấy nói bằng giọng Dublin đặc sệt, sau đó
đổi sang một giọng mỉa mai, kẻ cả hơn: “Ăn kèm rau diếp và cà chua
bi, thêm một lát bánh mì và bơ. Món tráng miệng có thạch và kem, ăn
trước khi dùng thuốc rửa ruột – nên vui lòng gọi y tá Sue để biết
thêm.” Bà ấy nở nụ cười ngọt lịm trong một tích tắc rồi lập tức quay
trở lại bộ mặt cau có như cũ.
“Bánh khoai tây nhìn như cứt, còn miếng rau kia y như cỏ. Chị
trông tôi có giống ngựa không Mags?”
Người phụ nữ phát đồ ăn không đeo bảng tên. Bất chấp lời thoá mạ,
bà ấy có thể cảm thấy hơi hơi được ca tụng trước việc ông ta nhớ nổi
tên mình. Trừ khi tên bà ấy là Jennifer.
“Không, ngài Basil, ngài chắc chắn không giống ngựa. Ngài trông
giống một ông già ốm nhách, cáu bẳn cần phải ăn bữa tối. Giờ thì ăn
hết đi.”
“Bữa tối hôm qua nhìn giống đồ ăn mà ăn thì như cứt. Có thể đống
cứt này sẽ thật sự có vị giống đồ ăn.”