làm anh đau đớn, Barry, nhưng tôi không kéo người khác vào chuyện
của mình.”
Anh ta nhìn đi chỗ khác. Mọi áy náy dường như đã biến mất.
“Không, không phải vì những chuyện đó,” anh ta giận dữ nói. “Tôi
không thấy áy náy vì cái nào trong mấy chuyện đó cả.”
Tôi không thể tin anh ta lại xấc xược như thế. Anh ta sửa lại tư thế.
“Tôi xin lỗi vì cái tin nhắn thoại kia. Đáng lẽ tôi không nên nói
những gì tôi đã nói. Nó sai rồi.”
Tim tôi nện thình thịch, anh ta chỉ có thể nói về một tin nhắn, cái tin
tôi chưa được nghe, cái tin Adam đã nghe và xóa đi.
“Cái nào, Barry? Có cơ man nào là tin nhắn cơ mà.”
Anh ta nuốt nước bọt. “Cái tin về mẹ cô, được chứ? Tôi đáng lý
không nên nói thế. Tôi đã muốn làm cô đau đớn bằng cách sâu cay
nhất có thể. Tôi biết đó là nỗi sợ lớn nhất của cô nên...”
Anh ta bỏ dở câu và tôi cố suy nghĩ. Sau một lúc tạm dừng khá lúng
túng, tôi bỗng nhận ra mình đã biết từ lúc đó tới giờ. Đôi lúc ta có thể
biết điều gì đó và đồng thời không biết nó.
“Anh nói tôi sẽ tự tử như mẹ tôi,” tôi nói, giọng run lên.
Anh ta xấu hổ. “Tôi đã muốn làm cô đau.”
“Chà, đáng ra nó đã có tác dụng đây,” tôi buồn bã nói, nghĩ đến việc
Adam lắng nghe tin nhắn đó. Vậy là anh ấy biết mẹ tôi đã tự tử, biết
rằng trong những giây phút sâu thẳm và tăm tối nhất khi tất cả mọi
người đều nói tôi giống mẹ thế nào, đó là lúc tôi thầm lo rằng chúng
tôi quá giống nhau. Một bí mật tôi đã chia sẻ với chồng mình và đã
quay lại ám ảnh tôi ngay cả vào lúc tôi biết mình không giống mẹ theo
cách đó. Mẹ tôi đã chịu đựng căn bệnh suy nhược tinh thần trầm trọng
suốt cả cuộc đời bà ấy. Bà ấy đã ra ra vào vào bệnh viện và phòng
khám trị liệu suốt từ hồi còn là một thiếu niên. Cuối cùng, khi không
thể đánh bại con quỷ trong đầu được, bà ấy đã tước đi mạng sống của
chính mình năm tôi tròn bốn tuổi. Bà ấy từng là một người biết suy
nghĩ, biết lo lắng, một nhà thơ. Và trong số tất cả những suy nghĩ và