chẳng có các bà các cô đến lễ bái, rồi cùng đi với các cô, có các cậu sẽ giở
trò ghẹo nguyệt trêu hoa. Vì thế bần tăng bỏ nơi danh sơn mà đến hoang
sơn cùng cốc để mắt, tai khỏi bị nhiễm thói hư tật xấu ở đời, thế thôi."
Người hỏi rất khâm phục khi nghe ngài đối đáp, cho rằng từ xưa tới giờ
chưa có vị sư tăng nào được như thế. Ngài chỉ thực hiện ba điều giới cấm
mà tuy không cầu danh nhưng danh càng nổi, dân chúng xa gần ngưỡng mộ
mà kéo đến chiêm bái thật đông. Nhưng ngài không thu nhận đệ tử ào ạt.
Phải là kẻ có thiện căn thành tín thì mới được xuống tóc, nếu không đều bị
cự tuyệt khước từ. Vì vậy tuy ngài xuất gia đã lâu mà đệ tử chẳng có mấy
người. Một góc núi, một túp lều tranh, cày ruộng mà ăn, múc nước suối mà
uống, trên cột trước cửa nhà viết một đôi câu đối:
Học Phật vô an lạc, thân tu hoạt du biến nhất thập bát tầng địa ngục.
Tham thiền phi dung dị, minh vấn dĩ tọa phá kỷ thiên bách cá bồ đoàn.
(Học Phật không thấy an lạc, nên chu du khắp mười tám tầng địa ngục.
Ngồi thiền chẳng cảm thoải mái, phải tự hỏi ngồi nát bao nhiêu đệm bồ
hương.)
Chỉ cần gặp, là biết cuộc đời ngài khổ hạnh đến mức nào.
Một ngày thu trời vừa hửng sáng, gió hiu hắt tiếng mõ vừa ngưng, côn
trùng kêu rả rích, nhà sư ra sân quét lá, thay nước cúng Phật, thắp hương
xong rồi vào nhà trên trải đệm bồ hương ngồi thiền. Ngài sơ ý quên đóng
cửa lại. Chợt có một thư sinh trẻ tuổi khôi ngô tuấn tú cùng hai tiểu đồng
bước vào. Thư sinh ấy làn da trắng hồng, dung mạo tựa Phan An, mặt trắng
như con gái, mày dài quá mắt, đồng tử đen trắng phân minh, long lanh bất
định. Ðôi mắt ấy, người đời gọi là sắc nhãn, mà đã là người có sắc nhãn thì
thường không ưa nhìn thẳng, chỉ thích liếc ngang, lại không thích nhìn nơi
nào bằng ngắn phụ nữ. Người có sắc nhãn không cứ chỉ thấy rõ ở gần, mà
còn có thể từ xa hằng mấy mươi trượng, chỉ cần đảo cặp mắt qua là đã có
thể biết được phụ nữ xấu đẹp ra sao. Gặp người đẹp tức khắc nhìn đắm
đuối, nếu người ấy đứng đắn, sẽ phải cúi đầu mà tránh. Thấy vậy đôi mắt