lắm nhưng cũng chẳng bị quấy rầy. Nàng nhận ra rằng sở dĩ tâm hồn nàng
được thư thái là vì nàng vừa nhận những tin mới nhất về người lái buôn
Arập Ali Mektub.
Angielic cứ nhẩm đi nhẩm lại những lời Savary nói để khỏi rơi vào tuyệt
vọng. Nàng không thể
nhầm được. Nàng đã hành động đúng khi quyết định đến Crete mặc dù đã
phải trải qua bao nỗi gian truân cùng cực. Sợi chỉ mỏng manh chưa bị đứt,
và hi vọng vẫn lóe lên ở cuối đoạn đường. Bây giờ nàng không phải tự lừa
dối mình nữa. Suốt một thời gian dài trong công cuộc tìm kiếm của nàng
chẳng thấy có gì rõ ràng dứt khoát. Lúc nào và ở đâu nàng sẽ có thể gặp
người cháu trai của Ali Mekbub? Thậm chí nàng sẽ lại được tự do hay là cái
hậu cung định mệnh khủng khiếp đang chờ đợi nàng?
Hẳn là nàng đã ngủ thiếp đi và ngủ thật ngon vì khi tỉnh giấc nàng thấy
ngay cạnh nàng một chiếc mâm đồng. Trên mâm có cà phê Thổ ngan ngát
hương thơm, một ít hạt Pistachio và vài cái bánh mật ong.
Nàng ăn sắp xong thì nghe có tiếng người vọng lên từ hành lang phía dưới.
Có tiếng chân người đến gần. Chìa khóa lại rin rít trong ổ khóa. Và rồi tên
chột mắt ẩy hai người đàn bà khác, một che mạng. Cả hai tuôn vào mặt tên
cướp những lời nguyền rủa dữ tợn bằng tiếng Thổ. Tên quản ngục cũng
chửi lại bằng thứ tiếng ấy. Sau khi khóa cửa y bỏ đi mồm vẫn làu bàu.
Hai người đàn bà lui vào góc hầm và giương cặp mắt hãi hùng nhìn chằm
chằm Angielic. Mãi một lúc sau họ mới nhận ra nàng cũng là đàn bà. Thế là
họ phá lên
cười như điên như dại.
Lúc này Angielic đã quen với ánh sáng lờ mờ và thấy rõ người đàn bà đeo
mạng mặc một cái quần Thổ, áo sơ mi lụa đen và một chiếc áo chẽn hở
ngực bằng nhung. Chiếc mũ nhung đỏ chụp lên bộ tóc đen dày, chiếc mạng
thưa che kín mặt chị ta. Thấy trước mặt mình chỉ có một người đàn bà thôi,
chị tháo mạng che và để lộ hai hàng lông mi dài hơi xanh, trên đôi mắt
giống mắt hươu. Nếu cái mũi không quá to thì hẳn chị rất đẹp. Cổ chị đeo
chiếc dây chuyền vàng treo thánh giá. Chỉ cầm thánh giá hôn mãi rồi làm
dấu thánh.