nhà thờ
nhỏ trong lâu đài của ngài vậy. Điều này có khi tạo nên những cảm giác khá
là kỳ thú, cha tuyên uý làm lễ dưới các bức tường của thành phố đang bị
vây hãm trong lúc đó khói hương hoà lẫn với khói súng đại bác bắn những
phát đầu tiên. Nguyên soái thích thú kêu lên: "Nhịp cầu thần thánh dưới
những bức tường của thành Giêricô" (1: Jéricho: thành phố cổ ở Jérusalem
gần song Geordan bị phá huỷ nhiều lần trước và sau Công nguyên). Đấy là
ông chủ mà tu sĩ đơ Letxđighie đang phục vụ sau khi vắng mặt bà chủ - ông
ta tưởng chừng sẽ không bao giờ còn gặp lại nữa và hôm nay ông ta đã tìm
lại được với niềm vui sướng không sao tả xiết.
Khi hai người ăn uống xong xuôi, Angêlic lui ra phía cửa sổ để đọc bức thư
của Đức cha đơ Xăngxê mà người gia sư cũ của con trai nàng vừa trao lại
cho nàng. Trong thư ông cố đạo nói về Phơlôrimông. Thằng bé không xứng
đáng với những cố gắng của nhà trường - ông nói - Nó không thích lao
động trí óc và điều cơ bản là nó thiếu thông minh. Nó có thói quen xấu là
hay trốn vào một xó để nghiên cứu địa cầu và các dụng cụ thiên văn trong
nhưng giờ học kiếm thuật hoặc cưỡi ngựa đi mất tăm khi thầy giáo toán đến
lớp. Tóm lại là nó thiếu kỷ luật sơ đẳng nhất của nhà trường, và điều thật
đáng chán là nó cũng chẳng
vì thế mà buồn phiền chút nào. Bức thư chấm dứt bằng những lời tường
trình bi quan như vậy và cũng chẳng giải thích gì thêm. Angêlic nghĩ: "Ta
biết như thế nghĩa là như thế nào rồi", và ngước nhìn lên nàng thấy cành lá
sum sê của khu vườn đã ngả vàng và chỉ trong vài ngày, bụi cây anh đào dại
đã dổi sang màu huyết dạ.
Mùa thu đã đến.
Tất cả những lời lẽ nói trên chỉ là cái cớ mà thôi. Phơlôrimông không đời
nào dám rời trường mà không xin phép của Đức Vua. Nàng lập cập quay lại
với hai người mới về.
- Cha phải đi ngay lập tức - nàng nói với tu sĩ - và cha không bao giờ được
trở về đây, cũng không được mang Phơlôrimông về theo.
Manbơrăng đến làm gián đoán những lời phản đối hốt hoảng của người tu sĩ
trẻ tuổi.