gái, nàng cảm thấy mối thù hận của những con người bất hạnh đang đè
nặng lên mình.
Người chồng của bà nông dân kia đã chết trong một trận chiến đấu chống
lại Nhà Vua. Trên đường qua làng bọn lính đã cướp sạch của bà, nào bánh
mì, nào gia súc, nào lúa gạo và bắt cả cô con gái đầu của bà đi theo. Cũng
chẳng biết con bà bây giờ ra sao nữa.
Trong góc phòng có kê một chiếc gường rộng kiểu Văngđe, bốn đứa bé
xanh lướt, thò đầu ra khỏi những chiếc khăn rách mướp. Người ta giữ bọn
trẻ lại trên gường suốt ngày để chúng được ấm áp và đỡ đói.
Một lúc sau, ông già, sau khi đã ra hiệu với cô con dâu đứng lên, mặc áo
choàng với chiếc rìu và bảo rằng lão ta vào đốn củi trong lùm.
- Biết đâu lão già lại chẳng chạy đi báo bọn lính - Flipô thì thầm, tốt hơn hết
là ta chuồn ngay đi thôi.
Angêlic đồng ý. Bà nông dân vờ vĩnh tìm cách giữ nàng lại. Angêlic đột
ngột đi ngay. Nàng lấy một miếng bánh mì và pho mát cho Ônôrin. Người
đàn bà chửi rủa
tới tấp.
- Xéo đi! Xéo ngay! Đi cho thật xa. Bà đã quấy rầy các con ma, bà và đứa
con đáng nguyền rủa của bà. Tôi chẳng còn nghe các con ma gặm nhấm
trong tường từ khi bà đến nhà tôi. Nếu ma bỏ chúng tôi mà đi rồi thì chúng
tôi sẽ sống ra sao hả?
Việc các thần linh trong nhà biến mất hầu như đối với bà ta còn bi đát hơn
tất cả những khó khăn đã làm bà ta khổ sở từ trước tới nay.
Angêlic cuỡi trên một con la cái gầy trơ xương chỉ còn đủ sức đi lò dò từng
bước một. Flipô cầm dây dắt con vật. Họ đi qua những làng mạc bị đốt với
những người bị treo cổ thê thảm trên cành cây du non tại quảng trường.
Khi trời tối, họ đã tới chỗ Cây đèn Bồ câu. Đèn đã được thắp sàng. Những
cây đèn của người chết là đèn pha của vùng rừng thưa này. Những cây nến
dài bằng đá cắm trên bệ có nhiều bậc ở ngã ba đường để hướng dẫn những
người đi đường lúc ban đêm khỏi bị lạc trong bóng đen dày đặc trên những
con đường lồi lõm. Những cây đèn đứng đấy cũng để tập hợp các linh hồn
lang thang và ngăn không cho chúng đi quấy phá giấc ngủ của những người