đang sống. Đến cuối mùa đông, mặc dù thiếu dầu mỡ, những bàn tay thành
kính vẫn cố giữ những ngọn đèn đó. Mỗi buổi chiều người thợ làm guốc ở
gần Cây đèn Bồ
câu lại đi xuống bật lửa châm vào bấc đèn bằng xơ đay được che bằng một
tháp chuông nhỏ có chạm trổ.
Angêlic từ trên lưng la nhảy xuống và ngồi trên bậc đá rêu phong.
- Chẳng có ai cả - nàng nói - Chúng ta với con bé sẽ chết cóng ở đây mất
thôi, nếu phải chờ lâu. Flipô, cậu lấy la mà đi đón họ. Cậu bảo họ đi nhanh
một chút hoặc đi tìm một cái kho thóc mà ngủ qua đêm nay.
Flipô ra đi và tiếng vó gõ một cách mệt mỏi xuống mặt đất cứng còn vang
lên hồi lâu trong không gian hoang vắng. Những thân cây cứng đơ trong lớp
băng giá nổ lách tách như thuỷ tinh vỡ. Cái rét mỗi lúc một đậm, có một cái
gì sắc lạnh, cắt da cắt thịt. Angêlic ngồi yên cảm thấy rét đến tận xương tuỷ.
Hơi thở của nàng đọng lại trược mặt thành một đám sương lạnh. Má con bé
Ônôrin được ấp dưới thân áo khoác của nàng cũng không còn chút hơi ấm
nào nữa. Nhờ ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn soi nàng trông thấy cái nhìn
của đứa bé, đôi mắt đen và chăm chú như mắt một con sóc. Hai cánh tay
Angêlic không còn đủ sức sưởi ấm cho nó nữa. Hai bàn tay bé xíu của nó
đỏ ửng lên vì cóng đang nắm chặt miếng pho mát và miếng bánh mì.
Angêlic nhớ lại người đàn bà nông dân.
"Đứa trẻ
đáng nguyền rủa"... Người ta gọi nó như thế đấy!
Môi nàng run lên vì căm giận.
- Sao những người nhà quê kia lại cư chõ miệng vào nhỉ ? Chỉ có mỗi mình
ta biết con có đáng nguyền rủa hay không mà thôi...
Lại một lần nữa, nàng lấy những ngón tay tê dại quấn lại chiếc khăn san
quanh mình con bé.
Nàng dỏng tai lên nghe ngóng, mong mỏi được nghe tiếng vó ngựa từ xa.
Có tiếng sột soạt và tiếng cành cây gãy làm nàng chú ý.
- Ai tơi đấy ? - nàng hỏi to.
Nàng cố nhìn cho rõ cái gì đang động đậy trong rừng thấp. Đột nhiên một
tiếng rú dài vang lên và nàng đứng phắt dậy. Một bầy sói!... Lẽ ra nàng phải