gá ban ngày và cả ban đem trên toà tháp đèn lồng. Vì bà ta thường ngồng
tách vỏ đỗ trước
cửa sổ để ngỏ hoặc ngồi mạng tất cho người trong nhà còn họ thì đi qua vừa
ngáp dài và chuyện gẫu. Bà ta là người đầu tiên biết rõ mọi hoạt động của
hải cảng vì những người lính gác trên tháp Đèn lòng phải báo hiệu cho các
đội tàu chở rượu nho từ Hà Lan, Phần Lan, Tây Ba Nha, Anh hay từ Mỹ
đến cảng, cũgn như tàu chiến, tàu buôn của nước ngoài hay của La Rôsen.
Hễ có một chiếc buồm trắng nổi lên ở phía chân trời, dưới đảo Ôlêrông
hoặc đảo Rê người lính gách liên thổi tù và ngay. Sau đó, tái cửa ra vào hải
cảng tiếng chuông vang lên hồi lâu. Những người môi giới, các nhà buôn,
các chủ tàu bắt đầu hoạt động tấp nập. Ở La Rôsen, người ta không bao giờ
buồn vì hàng ngày tất cả các thứ tàu bè đến đây đổ xuống các bến bãi các
thứ nuôi sống người của toàn thế giới.
Ngày xưa người ta báo hiệu tầu vào cảng từ toà tháp Xanh - Nicôla nhưng
bây giờ thì đến một nửa tòa tháp đẹp đẽ này đã sụp đổ, nhường lại vinh dự
đó cho tháp Đèn lồng.
Bà Rêbeca đóng kín cửa sổ, đậy các cánh cửa gỗ lại thế là yên tĩnh trở lại.
Angêlic liếm môi. Làn môi tươi mát hơi có vị mặn.
Nàng trông thấy Ônôrin đã thức giấc. Nó ngồi nhổm dậy trên gường, mái
tóc óng ánh buông xuống đôi vai trần bé nhỏ. Nó giống như đứa bé của
nàng tiên cả đã nghe theo tiếng gọi của
sóng biển về đây. Đôi mắt mơ màng của nó còn đầy ắp một giấc mộng kỳ
lạ. Angêlic cho nó ngủ lại và đắp chăn cho nó. Nàng nhớ ra là Ônôrin được
đóng dấu của thần biển Néptunờ. Đứa bé lên bảy tuổi đang ngồi trên bậc
cuối cùng của cầu thang dẫn sang các tầng khác của ngôi nhà. Nấp trong
bóng tối chắc hẳn cậu ta đã nghe lỏm hết câu chuyện bà già vừa mới kể.
Bà vừa đi qua trước mặt thằng bé vừa lắc đầu lia lịa.
- Thằng bè này ra đời đã cướp đi sự sống của mẹ nó. Nên chẳng ai thích
nó...
Bà ta bắt đầu vừa đi xuống vừa lẩm bẩm.
- ... Những đứa trẻ mồ côi đâu khổ, những người mẹ khóc hết nước mắt...
Chẳng phải một sớm một chiều mà cái vòng nước mắt ngừng lại cho đâu, ta