lại thẳng tay lùng bắt, đàn áp những người dân nhập muối lậu thuế. Tât cả
những tai họa đó đã dẫn đến sự nổi dậy của đám dân vùng đầm lầy. Thình
lình xuất hiện từ các đầm cói, đám nông dân ấy đã cướp bóc nhiều thôn
xóm, không chịu nộp thuế, thậm chí còn giết những nhân viên thu thuế.
Quân lính Nhà vua đã được điều đến để truy lùng đám dân nổi loạn, họ lẩn
như trạch qua các vùng đầm lầy, kênh lạch, một số trong bọn họ bị bắt và bị
đem treo cổ ở các ngã ba đường.
Bây giờ Angiêlic hiểu rõ rằng trở thành người giàu có nhất trong tỉnh có ý
nghĩa như thế nào. Nàng đã quên bẵng mất cái thế giới của những người bị
áp bức, luôn bị nỗi lo sợ về thuế má và các thứ sách nhiễu ám ảnh. Phải
chăng nàng đã trở nên quá vị kỷ trong lúc say sưa với hạnh phúc và xa hoa
của mình. Có lẽ ông Tổng giám mục sẽ bớt làm rầy rà vợ chồng nàng, nếu
như nàng biết làm vừa lòng ông ta bằng cách dốc lòng vào các sự nghiệp từ
thiện do ông chủ trương chăng?
Đoàn người chẳng mấy chốc đã tới bờ một con suối nhỏ vùng núi có dòng
nước chảy xiết.
Cuộc đi thăm mỏ được lui lại ngày hôm sau. Những căn nhà tạm trú khiêm
tốn nhưng thuận tiện đã được chuẩn bị sẵn. Một xe ngựa tải đồ đã đem hòm
xiểng quần áo và giường đến cho khách. Bá tước Perắc nhường mấy
căn nhà cho giáo sư Bécnali, linh mục Bêse và Hầu tước Ăngđigiô. Bản
thân ông Perắc là chủ thì sử dụng một cái lều vải rộng có hai mái mà ông đã
tậu từ Xyri đem về đây. Ông bảo vợ:
- Thời tiết nóng nực và không khí hanh khô thế này, Angiêlic ạ, em sẽ thấy,
chúng ta nghỉ ở lều dễ chịu gấp mấy lần so với ở trong những bức tường đá
hay tường đất nện.
Ngày hôm sau, bác Phrít Hâuơ đến dẫn khách vào thăm mỏ vàng. Đây là
một công trường nằm sâu trong thung lũng ở chân dãy núi Coocbie. Một
vùng đất quặng rộng lớn dài khoảng một trăm mét và rộng độ ba mươi mét
đang được khai thác. Những dụng cụ, máy móc bằng sắt thép và gỗ chia cắt
vùng quặng thành những khối tương đối nhỏ, chất thành đống lên các cỗ xe
để chuyển đến các máy nghiền bằng đá.