tảng đá rêu phong thật to. Với trực giác của đàn bà, Angiêlic nhận thấy cha
đờ Ghêrăngđờ giả vờ làm như không để ý đến nàng.
- Xin giới thiệu với cha đây là vợ tôi, nữ bá tước đờ Perắc đờ Morenxơ
Đirixtru - Giôphrây nói với vả lịch sự thanh thản thường có.
Giáo sĩ trẻ khẽ nghiêng đầu về phía Angiellic với cử chỉ cứng cỏi gần như
máy móc rồi ngoảnh mặt đi, và ông ta tha thẩn nhìn xuống mặt nước phẳng
lì đang mỗi lúc một tối sầm lại trong khi dưới đáy nước sáng bừng lên ánh
phản chiếu màu đỏ tía của nhiều bếp lửa hồng được đốt lên ven bờ sông.
Phía trước mặt, những người
Anh điêng đã đem cha đạo tới, đang thu xếp chỗ để sửa chữa thuyền.
Perắc tỏ ý muốn mời họ cùng xơi món hoẵng và gà tây quay trên các que
xiên và món cá hồi vừa câu lên đang được gói vào trong lá và hầm dưới tro
nóng.
Cha đờ Ghêrăngđờ lắc đầu chối từ và nói đấy là những người Keneba,
những người bản xứ rất hung dữ, họ không thích dính dáng với người nước
ngoài.
Angiêlic bỗng nghĩ tới cô bé người Anh Rôđờ An họ đem theo đến đây.
Nàng đưa mắt tìm và không thấy cô bé đâu cả. Lát sau nàng mới biết là từ
khi giáo sĩ tới, Canto đã đưa cô bé biến đi để ông ta khỏi trông thấy. Cậu ta
đang nóng lòng chờ đợi trong một lùm cây nào đó, vừa gẩy đàn ghita để
mua vui cho cô bé vừa chờ họ nói chuyện xong.
- Như vậy là - cha đờ Ghêrăngđờ nói - Ông đã trải qua mùa đông giữa vùng
Apalasờ phải không, thưa ông? Các ông có bị bệnh scobut không? Có bị đói
không? Có mất người nào trong số kiều dân của ông không?...
- Không, không một người nào, đội ơn Chúa!
Giáo sĩ nhăn nhó khó chịu và hơi mỉm cười ngạc nhiên.
- Tôi lấy làm sung sướng được nghe ông ca ngợi Chúa, ông đờ Perắc ạ.
Người ta đồn rằng ông và lũ người của ông chẳng ngoan đạo chút nào.
Rằng ông tuyển người một cách bừa bãi trong số những kẻ dị giáo, những
kẻ thờ ơ, những kẻ không tín ngưỡng, thậm chí trong số đó còn có cả những
kẻ cứng đầu cứng cổ, lầm đường lạc lối vì kiêu ngạo, hễ mở mồm ra là
báng bổ và nguyền rủa Chúa.