cha tuyên úy nào ư? - Angielic hỏi.
Bà công tước đã từng nói với nàng rằng những người chết vì đắm tàu đã
không được chịu lễ rửa tội, và Angielic nhớ lại là trong số xác chết trôi dạt
vào bờ không có một xác nào mặc áo choàng giáo sĩ.
- Có chứ - Bà ta đáp, giọng lạnh lùng - Chúng tôi có cha Căngtanh. Một con
người rất kính tín, thiết tha với hạnh phúc những người man rợ. Nhưng bà
xem cuộc hành trình của chúng tôi rủi ro biết chừng nào; ông già tội nghiệp
đã chết đuối ngoài khơi Đại Tây Dương. Lúc đó sương mù dày đặc. Tàu
chúng tôi lướt bên cạnh một tảng băng khổng lồ. Toàn thể đoàn thủy thủ
thét lên: Lạy Chúa, chúng ta chết cả rồi! Chính mắt tôi trông thấy tảng băng
khủng khiếp ấy. Chúng tôi thấy nó đánh vào mạn tàu. Vì sương mù, chúng
tôi không nhìn thấy ngọn tảng băng.
Bà công tước suýt ngất xỉu, Angielic kéo ghế đẩu và ra hiệu mời bà ta cùng
ngồi.
- Thế còn cha Căngtanh? - Nàng hỏi.
- Ông ta mất tích chính ngày hôm đó. Không ai biết điều gì đã xảy ra. Tôi
luôn luôn nhìn thấy tảng băng ma quái ấy, nó lướt qua chúng tôi và tôi vẫn
cảm thấy luồng hơi lạnh buốt và chết chóc của nó. Tôi như cảm thấy có
những con yêu quái ám nó và đẩy nó về phía tôi.
Angielic nghĩ bụng dù thông thái, sùng đạo và giàu có đến đâu "Bà ân
nhân" vẫn là
người dễ xúc động, nhẽ ra không nên làm những cuộc hành trình trên biển
cả vốn bao giờ cũng phiêu lưu và khủng khiếp. Ông linh mục nghe xưng tội
chắc hẳn đã khuyên bảo bà ta không đúng hoặc đã nhầm lẫn đặt bà ta ngang
hàng với những người phụ nữ vĩ đại lừng danh ở xứ Canada thuộc Pháp đã
từng làm vô số cuộc viễn du trên Đại Tây Dương. Hoặc giả vị giáo sĩ đạo
Gia tô ấy vì chắc hẳn là một giáo sĩ Gia tô đã muốn lợi dụng lòng sùng đạo
của người quả phụ tội nghiệp quá giàu có để phục vụ những sứ mệnh của
nước Pháp Mới mà Giáo hội chịu trách nhiệm?
Lòng chắc ẩn nảy sinh trong Angielic và nàng tự trách mình về thái độ bực
dọc hôm qua đối với bà công tước khi bà ta giảng giải về thủy triều và lực
hút của mặt trăng.