quốc của đêm tối và kinh hoàng. Bức tượng Đức Chúa Trời này là cái mốc
ranh giới mà không một tên lính hay cảnh sát nào dám vượt qua. Những
người lương thiện lại càng không bước qua ranh giới đó. Với lại họ đến đấy
làm gì, trong cái xóm không tên ấy, với những ngôi nhà đổ nát, những túp
lều vách đất, những xe bò, xe ngựa hỏng, những cối xay và thuyền bè cũ nát
được mang tới đây bằng cách nào không biết, dùng làm nhà ở cho hàng
ngàn gia đình.
Bản thân những người dân ở đây cũng chẳng có tên tuổi, gốc tích, lại không
cả nơi nương tựa, ngoài khu vực của dân du đãng này.
Angiêlic biết rằng nàng
vừa bước vào lãnh địa của Hành khất Đại đế. Bóng tối ở đây, dày đặc hơn
mọi nơi, và cảnh vật im lặng khác thường như một tấm màn bọc lấy người
nàng.
Những tiếng hát vọng lên từ những quán rượu ở cách xa đó cứ lịm dần đi. Ở
đây không có quán rượu, không có ánh đèn, chẳng có tiếng hát, không có gì
ngoài sự nhơ nhớp đến tột cùng, với những rác rưởi ngập ngụa, chuột, chó
bỏ chạy khắp nơi.
Angiêlic đã đến đây một lần, đã từng đi trong khu vực riêng biệt này của
ngoại ô Xanh-Đơni, nhưng vào ban ngày và cùng đi với Calăngbrơđen. Hắn
đã chỉ cho nàng xem dinh lũy riêng của Hành khất Đại đế, một ngôi nhà kỳ
cục có mấy tầng gác, hình như trước đây là một tu viện vì hãy còn thấy
những gác chuông và những đống đổ nát, vết tích của một nhà tu kín; chung
quanh có những ụ đất, những tấm ván, cây sào, đống đá cuội, tất cả để giữ
cho ngôi nhà đứng vững. Mặc dù được chống đỡ tứ phía, ngôi nhà vẫn xiêu
vẹo, ọp ẹp, phô ra những vết thương toang hoác trên các vòm và các cửa
kính hình vòng cung, đồng thời lại trưng ra một cách ngạo nghễ những
chùm lông chim trên các tháp nhỏ. Đó chính là lâu đài của vị Vua ăn mày.
Hành khất Đại đế sống ở đây với đám cận thần, đàn vợ, bọn thủ hạ thân tín
và thằng ngốc của lão. Và cũng ở đây, núp dưới cánh ông chủ lớn, têng