gái vì không muốn ta tìm thấy. Tuy thế không thể có chuyện ấy. Dường như
chẳng có vũ khí hay bất cứ thứ gì cần phải giấu đi cả.”
Weston trở ra ngoài.
Hercule Poirot nán lại ở đó. Ông thấy có gì đó khiến ông chú ý ở trong lò
sưởi. Cái gì đó vừa mới bị đốt gần đây. Ông quỳ xuống xem xét thật kỹ, đặt
những thứ vừa tìm thấy lên một tờ giấy. Nến nóng chảy đông lại thành một
cục to tướng méo mó - mấy mảnh giấy hay bìa cứng màu xanh lá cây, có thể
là một tờ lịch bị xé rời ra vì đó là một mảnh giấy chưa bị cháy mang một con
số 5 to tướng và một dòng chữ in còn sót lại… điều cao cả… Còn có một cái
đinh ghim và thứ gì đó của thú vật bị cháy, có lẽ là lông.
Poirot sắp xếp chúng thành một hàng gọn ghẽ rồi nhìn đăm đăm. Ông lẩm
bẩm:
“Hãy thực hiện những điều cao cả, chớ có ngày mơ tưởng cả ngày! Có thể
là câu đó. Nhưng sưu tầm mấy thứ này để làm gì? C’est fantastique!” Rồi
ông cầm cái đinh ghim lên và mắt ông mở to, sáng rực. Ông thì thầm:
“Pour l’amour de Dieu! Có lẽ nào lại như vậy?”
Đang quỳ bên lò sưởi, Hercule Poirot từ từ đứng dậy, nhìn quanh gian
phòng. Lần này xuất hiện một biểu hiện hoàn toàn mới mẻ trên khuôn mặt
ông. Nghiêm trang và gần như nghiêm khắc.
Bên trái bệ lò sưởi có mấy ngăn kệ với một hàng những quyển sách. Poirot
đăm chiêu xem qua một lượt các tựa sách.
Một quyển Kinh Thánh, một bản kịch của Shakespeare đã rách tơi tả, Cuộc
hôn nhân của William Ashe do bà Humphry Ward sáng tác. Mẹ kế trẻ của
Charlotte Yonge. Chàng trai ở hạt Shropshire. Án mạng trong nhà thờ của
Eliot. Thánh Joan của Bernard Shaw. Cuốn theo chiều gió của Margaret
Mitchell. Tòa án bốc cháy của Dickson Carr.