cũng tuỳ giặc mà tạo thế thắng, cho nên việc dùng binh không thể có thế
sẵn thường xuyên, như nước vẫn không có hình dáng sẵn từ trước, người
nào tuỳ địch biến đổi cái thế của mình mà thắng giặc, nên mới gọi là dùng
binh như thần. Quy luật dùng binh cũng như tự nhiên trong trời đất, “ngũ
hành” tương khắc tương sinh, bốn mùa thay đổi cho nhau, ngày có khi ngắn
khi dài, trăng có khi tròn khi khuyết, sự biến đổi luôn luôn như vậy, là lẽ
thường của muôn vật vậy!..
Cuối thu, ve sầu trên cây rền rĩ nỉ non, chim hoàng oanh ở trên cao đang
tíu tít gọi bầy. Ăn sáng xong, Vương Hử gọi Điền Vũ đến bên, đưa cho cậu
một cái cào, một cái xẻng, một cây cung và một bó tên, hẹn cậu trong ba
ngày phải săn cho được một đôi chim hoàng oanh, bắt về năm con ve đang
lột xác. Vương Hử nhấn mạnh, những con ve lột xác ấy là thứ phải đào từ
dưới đất lên chứ không phải tự nó bò ra rồi mới nhặt về. Điền Vũ vâng lệnh
ra đi, chẳng những mang theo dụng cụ và vũ khí, còn mang đủ cả lương
khô và nước uống. Thế nhưng cậu không hề đi đào ve và bắn chim mà đi
vào thung lũng mùa thu cảnh sắc như tranh vẽ để chơi cho thoả thích. Ba
ngày sau, quay về với hai bàn tay không. Thầy giáo hỏi tại sao, cậu đáp
rằng:
– Kẻ giỏi giũi như chui xuống chín tầng đất sâu, khiến cho địch không
nhìn thấy bóng, người giỏi công như hoạt động ở chín tầng mây, cao không
thể nào đo nổi khiến kẻ địch không sao phòng thủ nổi. Cho nên người giỏi
công thủ phải vừa có thể tự giữ được mình, lại có thể giành thế thắng, đệ tử
làm sao mà bắt được? Phàm những kẻ dễ dãi đào lên mà bắt, đều không
phải giữ giỏi, phàm những kẻ giương cung lên mà bị bắn rơi, đều không
phải là giỏi công. Thắng kẻ không thiện chiến không phải là biết dùng binh
đệ tử không muốn làm, cho nên về tay không ạ!…
Những lời lẽ đó khiến cho Vương Hử dở khóc dở cười, tuy làm như thế
xem ra có vẻ trò lại trêu cợt thầy, nhưng người làm thầy cũng không thể
không nhận ra rằng ra đề không kín kẽ, không thể không chịu phục trước
những nhìn nhận khác người và tài hùng biện giỏi giang đó.