huỷ hoại nông trang, khiến cho muôn ngàn người dân vô tội tan cửa nát
nhà, lưu lạc bốn phương.
Minh ước Quỳ Khưu ký kết hơn trăm năm sau, thời đại đổi thay, minh
ước ấy lại càng được thực hiện nghiêm chỉnh, nước Hoàng Hà không còn
lần nào dám hoành hành. Ngay cả những khi chiến tranh liên miên, đất
nước chẳng một ngày nào yên, nhưng thế gian vẫn còn có một thứ để mà
trông cậy.
Điền Vũ vừa khảo sát vừa xem sử sách.
Đầu đời nhà Chu, Văn Vương tu thiện tích. đức, thiên hạ đều thần phục.
Ngu, Nhuế tranh lợi, chẳng nước nào nhường nước nào, thế là vào nước
Chu, nhờ Văn Vương bình luận và phán xét giúp. Vào qua biên giới nước
Chu, thấy người cày ruộng nhường bờ cho nhau, tục lệ của dân thì người
dưới nhường người trên, người của nước Ngu, nước Nhuế thấy vậy xấu hổ
không biết lánh mặt vào đâu, quay sang bảo nhau: “Ta tranh nhau thế, chỉ
tổ cho người nước Chu họ cười cho, nay có gặp Văn Vương, cũng chỉ là để
nghe lời cười chê”. Chưa kịp gặp Văn Vương, họ nửa đường quay lại,
nhường nhịn lẫn nhau. Văn Vương dấy đội quân nhân nghĩa, lần lượt chinh
phạt Khuyển – Nhung, Mật Tu, nước Kỳ, nước Hàn, như gió thu cuốn lá
vàng chẳng bao lâu thống nhất được thiên hạ.
Vũ Vương phạt Trụ, quân của Trụ tuy nhiều nhưng không muốn đánh mà
chỉ nghển cổ trông ngóng đội quân nhân nghĩa đến sớm. Vũ Vương đến,
dân chúng cơm nắm cơm đùm đi đón, quân của Trụ bảo nhau bó giáo quy
hàng hoặc quay mũi giáo đánh trợ lực cho Vũ Vương. Vũ Vương động đến
đâu, quân Trụ tan rã đến đó.
Thời Xuân Thu, vì nước Trịnh đồng minh với nước Tấn, Sở vương đem
quân đi đánh nước Trịnh. Quân Sở vây nước Trịnh ba tháng, và Trịnh đã
dâng thành hàng Sở. Sở vương vào đến hoàng môn; Trịnh Tương công cởi
trần dắt dê ra đón.
Những sự thực lịch sử ấy nói với Điền Vũ rằng, quân đội nhân nghĩa là
vô địch trong thiên hạ. Sau này trong cuốn “Binh pháp” của mình, Điền Vũ