tay con nhân mã cử động. Tôi tròn mắt nhìn chằm chằm qua lớp kính cửa,
chăm chú nhìn vào bàn tay màu xanh lục đó, thầm nghĩ chắc chắn nguyên
nhân là cơn gió đang thổi, nhưng rồi từng ngón tay của nó bắt đầu động đậy
như thể cảm giác đang chậm chạp trở lại với chúng. Tôi kinh ngạc theo dõi
trong khi cánh tay khổng lồ của con nhân mã gập lại, rồi nó thò tay vào
chính lồng ngực của mình, moi quả bóng ra, rồi ném trở lại cho mấy đứa trẻ
đang reo hò. Trong khi trận bóng tiếp tục trở lại, cô gái có mái tóc rối bù
buông đuôi con nhân mã ra, và nó một lần nữa trở lại bất động.
Hơi thở của Millard làm mờ lớp kính cửa sổ ngay cạnh tôi. Tôi kinh ngạc
quay sang cậu ta. “Tôi không có ý bất lịch sự đâu”, tôi nói, “nhưng các cậu
là loại người gì vậy?”
“Chúng tôi đặc biệt”, cậu ta đáp, nghe có vẻ hơi lúng túng. “Chẳng lẽ cậu
không phải?”
“Tôi không biết. Tôi không nghĩ vậy.”
“Tiếc quá nhỉ.”
“Sao cậu lại bỏ nó ra?” một giọng nói cất lên sau lưng chúng tôi, tôi bèn
quay lại thì thấy Emma đang đứng trên ngưỡng cửa. “Mà thôi, kệ đi”, cô
vừa nói vừa bước tới nắm lấy sợi dây trói. “Đi nào. Bây giờ cô phụ trách sẽ
gặp mày.”
***
Chúng tôi vào bên trong trại trẻ, diễu qua trước nhiều đôi mắt tò mò nữa
đang theo dõi từ các khe cửa và đằng sau những chiếc ghế xô pha, vào một
phòng khách tràn ngập ánh nắng, một người phụ nữ có vẻ ngoài nổi bật
đang ngồi đan trong một chiếc ghế có lưng dựa cao, kê trên một tấm thảm
Ba Tư tinh xảo. Bà mặc toàn một màu đen từ đầu tới chân, mái tóc được búi
tròn hoàn hảo trên đỉnh đầu, bà đeo găng tay có viền đăng ten, và cổ áo
cánh hồ bột được cài cao khít - cả con người bà cũng chỉn chu hệt như trại
trẻ. Tôi đã có thể đoán ra bà là ai dù trước đó không hề nhớ tới bức ảnh của
bà trong chỗ ảnh tôi tìm thấy từ cái rương bị vỡ nát. Đây chính là bà
Peregrine.