trở lại một ngày nào đó. Nhưng rồi chẳng bao giờ trở lại.”
“Nhưng ông buộc phải đi, đúng không? Để chiến đấu?”
“Buộc phải đi ư? Tôi không biết. Anh ta nói không thể tha thứ cho mình
nếu cứ giương mắt nhìn cuộc chiến trong khi đồng bào đang bị săn đuổi và
tàn sát. Nói rằng đó là bổn phận của anh ta. Tôi đoán với anh ta bổn phận
quan trọng hơn tôi. Dù thế nào đi nữa, tôi đã đợi. Tôi đã đợi và lo lắng qua
suốt cuộc chiến tranh khủng khiếp ấy, cứ mỗi lá thư đến tôi lại sợ rằng đó là
tin báo tử. Sau đó khi chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc, anh ta nói không
thể quay trở lại nữa. Bảo là nếu quay về anh ta sẽ hóa điên mất. Nói anh ta
đã học được cách tự vệ trong quân đội và không còn cần một cô bảo mẫu
như Chim trông nom nữa. Anh ta sẽ tới Mỹ tạo lập một trại trẻ cho chúng
tôi, rồi sau đó sẽ báo tin cho tôi. Vậy là tôi đợi thêm nữa. Tôi đợi lâu đến
mức nếu thực sự đi cùng anh ta hẳn khi đó tôi đã bốn mươi tuổi rồi. Đến lúc
đó anh ta đã lập gia đình với một người bình thường. Và, như người ta nói,
thế là hết.”
“Tớ xin lỗi. Tớ không hề biết.”
“Đó là một câu chuyện cũ rồi. Tôi không còn bận tâm nhiều về nó nữa.”
“Cậu trách ông về việc bị mắc kẹt ở đây”, tôi nói.
Emma trừng mắt nhìn tôi. “Ai nói là tôi bị mắc kẹt?” Rồi cô thở dài.
“Không, tôi không trách anh ấy. Chỉ nhớ anh ấy thôi.”
“Đến tận bây giờ sao?”
“Mỗi ngày.”
Cô hoàn tất việc sắp xếp thư. “Vậy là cậu biết rồi đấy”, cô vừa nói vừa
đậy nắp hộp lên chồng thư. “Toàn bộ câu chuyện về mối tình của đời tôi
nằm trong một cái hộp phủ bụi để trong tủ tường.” Cô buông tiếng thở dài
rồi nhắm mắt lại và bóp sống mũi. Trong khoảnh khắc, tôi gần như có thể
thấy một bà lão ẩn đằng sau những đường nét tươi trẻ của cô. Ông nội tôi đã
giẫm nát trái tim héo mòn tội nghiệp của cô, và vết thương vẫn còn há
miệng, cho dù sau bấy nhiêu năm.