“Cháu phải đưa ông đi”, tôi nói với ông, luồn một cánh tay xuống dưới
lưng ông, cánh tay còn lại dưới hai chân ông. Tôi bắt đầu nâng ông lên,
nhưng ông rên lên và cứng người lại, vì thế tôi dừng lại. Tôi không thể làm
đau ông. Tôi cũng không thể để mặc ông ở đó, và chẳng còn biết làm gì hơn
ngoài chờ đợi, tôi cẩn thận khẽ phủi đất khỏi cánh tay, khuôn mặt và mái
tóc bạc lưa thưa của ông. Đúng lúc đó tôi nhìn thấy môi ông mấp máy.
Giọng nói của ông gần như nghe không rõ, thậm chí còn khẽ hơn một
tiếng thì thầm. Tôi cúi xuống, ghé tai sát vào miệng ông. Ông đang lẩm bẩm
lúc mê lúc tỉnh, lúc nói tiếng Anh, lúc lẫn sang tiếng Ba Lan.
“Cháu không hiểu”, tôi thì thầm. Tôi nhắc lại tên ông cho tới khi đôi mắt
ông dường như tập trung vào tôi, rồi ông thở hắt ra một hơi và nói, khẽ
nhưng rõ ràng, “Hãy tới hòn đảo, Yakob. Ở đây không an toàn.”
Lại vẫn là sự hoang tưởng xưa cũ. Tôi siết nhẹ bàn tay ông và cam đoan
rằng chúng tôi vẫn ổn, và ông rồi sẽ ổn cả. Đây là lần thứ hai tôi nói dối ông
trong một ngày.
Tôi hỏi ông chuyện gì đã xảy ra, con vật gì đã khiến ông bị thương,
nhưng ông không lắng nghe. “Hãy tới hòn đảo”, ông nhắc lại. “Ở đó cháu
sẽ được an toàn. Hứa với ông đi.”
“Cháu sẽ đi. Cháu hứa.” Tôi còn có thể nói gì khác đây?
“Ông tưởng có thể bảo vệ cháu”, ông nói. “Đáng lẽ ông phải nói với cháu
từ lâu rồi...” Tôi có thể thấy sự sống đang rời khỏi ông.
“Nói gì với cháu cơ?” tôi cố nén khóc hỏi.
“Không còn thời gian nữa”, ông thì thầm. Rồi ông ngẩng đầu lên khỏi
mặt đất, run rẩy vì gắng sức, và phều phào vào tai tôi, “Hãy tìm con chim.
Trong cái vòng. Ở phía bên kia ngôi mộ ông lão. Mồng ba tháng Chín năm
1940.” Tôi gật đầu, nhưng ông có thể nhận ra tôi không hiểu. Bằng chút sức
lực cuối cùng của mình, ông nói thêm, “Emerson... lá thư”. Hãy nói cho họ
biết những gì đã xảy ra, Yakob.”
Nói xong, ông nằm vật xuống, kiệt sức xỉu đi. Tôi nói với ông là tôi yêu
ông. Sau đó dường như ông chìm vào mê man, ánh mắt rời khỏi tôi hướng